Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, riêng 8 tháng qua Việt Nam chi gần 850 triệu USD (tăng gần 44% so với năm trước) để nhập khẩu gạo. Nhiều ý kiến cho rằng việc nhập này giúp giảm khả năng tăng giá gạo trong nước.
Gạo nhập giá rẻ hơn gạo nội địa
Ghi nhận thị trường gạo nhập khẩu từ các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm cũng như doanh nghiệp kinh doanh gạo nhập khẩu, đa số thừa nhận thị trường này rất sôi động.
"Gạo Việt Nam xuất khẩu mang màu sắc tươi sáng như thế nào, gạo nhập từ các nước cũng nhộn nhịp tươi sáng như thế đó. Tươi sáng ở đây hiểu là sản lượng càng ngày càng nhiều, chủ yếu gạo 5% tấm và gạo 100% tấm.
Rất nhiều doanh nghiệp quan tâm, thu mua gạo nhập để sản xuất, làm bún, làm bánh, làm thức ăn chăn nuôi..." - ông Nguyễn Long (TP.HCM), một đơn vị trung gian chuyên kinh doanh gạo nhập từ Ấn Độ, cho hay.
Ông Long cho hay nhiều thời điểm gạo Việt Nam xuất khẩu có giá vượt xa gạo Thái Lan và cao hơn gạo Pakistan khoảng 40 USD/tấn. Đặc biệt là gạo xuất khẩu 5% tấm, có lúc đạt gần 580 USD/tấn.
Trong khi đó theo ghi nhận, giá gạo nhập khẩu phổ biến trong khoảng 480 - 500 USD/tấn nếu về đến Việt Nam.
"Khoảng chênh lệch giá là lớn. Doanh nghiệp cần sản xuất bún, bánh hay phụ phẩm khác chẳng hạn, không thể mua gạo trong nước", ông Long giải thích.
Gần đây, nông dân chuyển sang trồng nhiều lúa gạo thơm giá cao. Theo chị Nguyễn Thị Anh, chủ tiệm bún tươi lớn ở TP Quảng Ngãi, mỗi ngày phải dùng 5 tạ gạo để sản xuất 1 tấn bún tươi.
Theo chị Anh, gạo "thường thường" dùng để làm bún được lấy ở một đại lý lớn, càng ngày càng "bất thường" vì giá từ 12.000 đồng/kg tăng vọt 17.000 đồng/kg.
"Trong khi 1kg bún tươi không thể tăng giá 2.000 - 3.000 đồng/kg, tăng là mất khách. Tôi bắt được mối gạo nhập, được chuyển từ TP.HCM ra. Lấy số lượng lớn, giá gạo chỉ 10.000 - 12.000 đồng/kg. Hướng ra để xóa lỗ là... dùng gạo ngoại", chị Anh cho biết.
Chủ một cơ sở sản xuất bún khô xuất khẩu (huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định) cũng cho hay qua 20 năm làm nghề, khoảng 5 năm trở lại đây, cơ sở này mua đến 40% loại gạo nhập khẩu.
"Những năm gần đây, nông dân chuyển sang trồng lúa gạo giá cao, còn lúa gạo ở phân khúc trung bình, phổ thông ít dần. Làm bún, phở, bánh tráng chỉ cần gạo dai, nở và giá thấp. Vì thế chúng tôi phải mua gạo nhập để phù hợp, làm ra sản phẩm thu lời nhiều hơn nếu so với mua gạo trong nước" - đại diện cơ sở cho biết.
Giúp giảm khả năng tăng giá gạo
Theo Bộ Công Thương, sản lượng lúa gạo hằng năm của Việt Nam tương đối dồi dào, đảm bảo an ninh lương thực, dự trữ quốc gia và dành một lượng nhất định cho xuất khẩu (khoảng 6 - 6,5 triệu tấn/năm).
Một chủ nhà máy gạo ở tỉnh An Giang, ông P.C.T., cho biết từ năm 2019 Việt Nam bắt đầu và tăng nhập khẩu gạo từ các nước, chủ yếu là Ấn Độ, Myanmar, Pakistan, Campuchia. Điều này không phải là nghịch lý mà hợp lý.
"Nông dân Việt bây giờ chủ yếu trồng gạo thơm, giá trị gia tăng cao. Trong khi để làm bún, bánh, thức ăn chăn nuôi cần gạo có giá mềm, phân khúc thấp. Việt Nam phải nhập gạo tấm từ Ấn Độ hay các nước khác là điều dễ hiểu", chủ nhà máy gạo này nói và cho rằng việc nhập bù lại nguồn cung, vừa duy trì năng lực sản xuất vừa giúp gạo Việt Nam không tăng giá lên rất cao do yếu tố cung cầu.
Với lo ngại doanh nghiệp nhập gạo về để thay tên, gắn mác gạo Việt Nam để xuất khẩu qua các nước, hoặc trà trộn với gạo Việt Nam để sản xuất, theo một số chuyên gia, điều đó chỉ trên lý thuyết vì thực tế thương lái, doanh nghiệp mua bán hay giới chuyên môn nhìn hạt gạo có thể phân biệt.
Hình hạt gạo Ấn Độ, Pakistan rất nhỏ, khoảng 49 - 52mm; còn gạo Việt Nam hình hạt to hơn, khoảng 60 - 70mm.
Theo một lãnh đạo phía Nam, Bộ NN&PTNT thừa nhận Việt Nam xuất khẩu gạo tốp đầu thế giới nhưng Việt Nam cũng phải nhập khẩu.
"Mỗi năm, nước ta nhập từ Campuchia trên 1 triệu tấn gạo để bù đắp trong trường hợp cần thiết. Hoặc nhập gạo từ quốc gia xuất khẩu lớn như Ấn Độ để làm phụ phẩm, thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm.
Tuy nhiên, cũng phải nói cho rõ: tuy nhập từ một số quốc gia có thể giá rẻ hơn gạo nội địa nhưng nếu các quốc gia này có cấm xuất khẩu gạo trắng, chẳng hạn như Ấn Độ, vẫn không ảnh hưởng lớn đến gạo phục vụ cho tiêu dùng của Việt Nam. Các vấn đề về an ninh lương thực vẫn đảm bảo", vị này cho hay.
Lượng lúa đảm bảo nhu cầu trong nước là bao nhiêu?
Theo Bộ NN&PTNT, đến năm 2030, việc giữ diện tích gieo trồng lúa khoảng 7 triệu ha sẽ cho sản lượng khoảng 43 triệu tấn lúa/năm, tương đương 27 - 28 triệu tấn gạo.
Trong đó, lượng lúa dùng cho đảm bảo an ninh lương thực của 100 triệu dân và các nhu cầu tiêu thụ nội địa khác (dùng chế biến thức ăn chăn nuôi, dự trữ trong dân, dự trữ quốc gia, làm giống...) khoảng 29,5 triệu tấn lúa/năm. Cả nước sẽ còn khoảng 13,5 triệu tấn lúa, tương đương 7 - 8 triệu tấn gạo dành cho xuất khẩu.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, đến ngày 15-9 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang ở mức tốt, cụ thể: gạo 100% tấm ở mức 452 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm ở mức 563 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 533 USD/tấn.
Số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng năm 2024, nước ta đã xuất khẩu khoảng 6,15 triệu tấn gạo, thu về hơn 3,85 tỉ USD. So với cùng kỳ năm ngoái, xuất khẩu gạo chỉ tăng 5,8% về lượng, song giá trị lại tăng mạnh gần 27%.
Thực tế, năm 2023 Việt Nam đã chi 860 triệu USD để nhập khẩu gạo từ các quốc gia, trong đó chủ yếu nhập từ Campuchia, Ấn Độ...
* Ông Nguyễn Thành (thành viên Hiệp hội Lương thực Việt Nam):
Không ảnh hưởng đến sản xuất của nông dân
Có doanh nghiệp nhập khẩu cả gạo Thái Lan về để sản xuất tiêu dùng nội địa, vì có lúc chênh lệch giá rất nhiều so với gạo Việt Nam.
Nhu cầu gạo phân khúc thấp ở nội địa tăng mà diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp vì có địa phương ở Đồng bằng sông Cứu Long chuyển sang nuôi tôm.
Trước đây, lúa có một năm 2 vụ, mỗi vụ 6 - 8 tấn gạo, 1ha trung bình thu hoạch 14 tấn. Nhưng chuyển sang nuôi tôm nên lúa nhiều địa phương ở Đồng bằng sông Cứu Long chỉ còn 1 vụ, chủ yếu gạo thơm.
Gạo nhập khẩu giá rẻ mang về lợi nhuận cho doanh nghiệp chế biến, bù đắp khoảng trống gạo phân khúc thấp nên tôi đánh giá không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của nông dân, cũng như giúp giá gạo Việt xuất khẩu ổn định, để còn cạnh tranh trên trường quốc tế.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận