Dù có mâu thuẫn trong đánh giá của báo chí đương thời, nhưng phim đã cho thấy nhu cầu khẳng định tinh thần quốc gia và giá trị văn hóa dân tộc bằng các phương tiện truyền thông "hiện đại" trước ảnh hưởng của văn minh phương Tây.
Bộ phim nay đã thất truyền nhưng vẫn còn may mắn sót lại những bức ảnh hiếm hoi, và có những bạn trẻ của thế kỷ 21 đang nỗ lực hồi sinh nó nhờ vào kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo (AI).
Khi Kim Vân Kiều lên chớp bóng
Bạn đọc báo Trung Bắc Tân Văn số ra ngày thứ bảy 9-6-1923 hẳn phải ít nhiều ngạc nhiên khi thấy ngay trên trang nhất trang trọng đăng bài của ông chủ báo Nguyễn Văn Vĩnh với tựa đề "Chớp bóng Kim Vân Kiều".
Cho đến thời điểm đó, điện ảnh thế giới khai sinh được 33 năm, rạp chiếu phim đầu tiên tại Hà Nội được người Pháp xây dựng khánh thành được 3 năm sau nhiều năm chỉ trình chiếu trong các công thự và doanh trại của người Pháp.
Ông Vĩnh mở đầu bằng việc nhấn mạnh vị trí trọng yếu của nghề chớp bóng trong thế giới tân thời: "Nghề chớp bóng (cinéma) ngày nay đã thành ra một cái cơ quan cổ động rất là công hiệu, một cách bắt buộc người ta phải biết đến, phải lưu tâm đến những điều, mà cứ đằng thẳng thì không mấy người nghĩ đến".
Nguyễn Văn Vĩnh thấy được ở chớp bóng khả năng giáo dục, quảng bá không phải bằng ngôn từ mà bằng "hình ảnh hoạt động" vượt ngoài biên giới quốc gia, đem đến sự đồng cảm mà "ai cũng hiểu được" rộng tầm thế giới.
Chính ở tính chất phổ thông hóa của điện ảnh mà "bao nhiêu những văn hay, những tư tưởng cao, những ý kiến có ích cho đời, những câu chuyện khéo đặt, những mỹ công tuyệt tác của các nhà đại tư tưởng trong thế giới, xưa kia" không còn là đặc quyền của một lớp độc giả tinh hoa mà được san sẻ rộng khắp đến mọi người như một "cao thú" bình dân, trở thành "một cuộc tiêu khiển cho tinh thần" của họ.
Nguyễn Văn Vĩnh - thông qua việc cổ vũ đưa Truyện Kiều lên màn ảnh - đã khởi động cuộc đối thoại với việc khai hóa văn minh của phương Tây mà các thế lực thực dân gọi là sứ mệnh.
Tự hào dân tộc từ sách lên phim
Theo đó, Nguyễn Văn Vĩnh nhắc rằng người Âu - Mỹ thường tự hào với văn chương - tư tưởng của họ, cho đó là "một cái tư cách đặc biệt của một nhân loại khác" các dân châu Á, và đã đi xa hơn nhiều các nước này "trên con đường tiến hóa".
Kiểm lại trong di sản văn chương, tư tưởng của dân tộc, Nguyễn Văn Vĩnh nhận ra viên ngọc quý Truyện Kiều đủ để minh chứng rằng Việt Nam "không phải là một nhân loại bề dưới, đủ chứng cho người Âu châu phải công nhận rằng cái lối văn chương, có tư tưởng, có tâm lý, có triết học, không phải là một lối văn chương riêng của các nước bên Âu - Mỹ, người Việt Nam cũng có cái cảm giác ấy, cũng có cái tư tưởng ấy".
Niềm tự hào Truyện Kiều là phản ứng của trí thức Việt, phản bác sứ mệnh khai hóa văn minh của phương Tây trên nền tảng tinh thần dân tộc, ái quốc, chống thực dân.
Đây là một khuynh hướng tư tưởng của tầng lớp trí thức Việt Nam đầu những năm 1920, sau gần hai thập niên từ khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị người Pháp vùi dập (1907 - 1923). Chẳng phải ngẫu nhiên khi đọc diễn văn ở lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền do Hội Khai Trí tổ chức ngày 8-9-1924, Thượng chi Phạm Quỳnh ngâm câu "Phong trần mài một lưỡi gươm / Những phường giá áo, túi cơm sá gì" mà tự hào dân tộc trào dâng: "Tôi tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn - Tiếng ta còn, nước ta còn - Có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ".
Nhận thức được hiệu lực và tầm quan trọng của phim ảnh trong thời đại mới cùng với ý thức dân tộc kể trên, Nguyễn Văn Vĩnh muốn quảng bá Truyện Kiều rộng ra trong và ngoài nước bằng việc "dùng một cái cơ quan rất màu nhiệm, như là cái phép chớp bóng", cải biên nó thành tác phẩm điện ảnh. Việc ông đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 18, cũng như sự hiện diện của hiệu Indochine Film ở Hà Nội khi ấy như là cơ hội chín muồi để hiện thực hóa dự án này.
Việc hợp tác với Hội Indochine Film được Nguyễn Văn Vĩnh xem như sự gặp gỡ của những ý tưởng mà trong đó dự án dựng phim Kim Vân Kiều là do ông đề xuất.
Ông muốn thế giới công nhận khả năng tư duy, cảm nhận, thể nghiệm, diễn đạt được sâu sắc nhất những ngóc ngách phức tạp, ẩn kín trong tâm lý, tình cảm con người của người Việt.
"Của tin còn một chút này..."
Tuy viết bằng tiếng Việt, loạt bài của Nguyễn Văn Vĩnh đã thu hút sự chú ý của bạn đọc người Pháp, đặc biệt là những người liên quan đến dự án phim Kim Vân Kiều.
Đầu năm 1924, tạp chí Thái Bình Dương cho đăng bức thư "Le Cinéma Indochinois" (Điện ảnh Đông Dương) của Hãng Phim và Điện ảnh Đông Dương (IFEC), cho biết đề án dựng phim đã được ấp ủ từ lâu:
"Ý tưởng quay phim, trên cơ sở thử nghiệm, một cuốn tiểu thuyết bản địa đầu tiên đã đến với chúng tôi vào năm ngoái, trong Triển lãm Thuộc địa. Chúng tôi không muốn là những người muốn hiệu chỉnh các bộ tiểu thuyết thuộc địa mà lại không biết lấy một chữ nào về đời sống thực tại của thuộc địa".
Ngày nay, chúng ta còn giữ lại được một tập sách nhỏ có tựa đề Kim Vân Kiều do Hội Indochine Films & Cinémas ấn hành sau khi bộ phim được công chiếu, trong đó một bài tựa ngắn bằng tiếng Việt, các bài viết còn lại đều bằng tiếng Pháp.
Dòng đầu của bài tựa đã viết rằng: "Nàng Thúy Kiều, con gái Vương Viên Ngoại, người ở Bắc Kinh nước Tàu". Thế nên sẽ không lạ gì khi phục trang của diễn viên trong phim là sự pha tạp, không thuần Việt - chi tiết đã bị các báo Trung Văn, Đông Pháp thời báo chê trách.
Sách cũng tiết lộ triết lý cải biên của những người làm phim: tác phẩm cải biên phải phát huy được thế mạnh của thể loại lựa cách dùng cho hợp nghề chớp bóng, không cần theo đúng như nguyên truyện, mà phải làm sao chạm vào nội tâm khán giả, khiến cho người ngồi xem động lòng mủi dạ, giọt lệ khôn cầm.
Quan trọng hơn là tập sách đã lưu giữ được một loạt ảnh chụp từ bộ phim...
"Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông..."
Bộ phim đã thất lạc, nhưng các hình ảnh quý hiếm còn lại của phim được in trong sách vẫn đang chờ được phục sinh và hòa nhập trở lại trong cuộc sống đương đại.
Với tinh thần này, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam - Đại học Fulbright Việt Nam, với sự nhiệt tình của các bạn trẻ, đã tiến hành phục chế các bức ảnh phim qua ba giai đoạn sử dụng công nghệ AI hiện đại: tăng cường, tinh chỉnh và hoạt hóa.
Kỹ thuật số được sử dụng để tăng độ phân giải và xóa nhiễu, giúp hình ảnh sắc nét hơn. Sau đó, Photoshop được dùng để tinh chỉnh các chi tiết, đặc biệt là khuôn mặt và phục sức, làm rõ các yếu tố mà AI chưa hoàn thiện. Cuối cùng, công cụ Animate giúp tạo ra các chuyển động nhỏ, như chớp mắt, nghiêng đầu, làm cho các nhân vật trong phim sống động hơn.
Quá trình phục chế này không chỉ hồi sinh hình ảnh mà còn mang lại cảm xúc mới, tạo nên sự gắn kết giữa di sản văn hóa và khán giả hiện đại.
Những "tàn ảnh" của tác phẩm đầu tiên của điện ảnh Việt Nam - phim Kim Vân Kiều - đã là cầu nối giúp thế hệ ngày nay kết nối lại với một phần lịch sử điện ảnh và giá trị văn hóa Việt Nam.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận