Dù đã ngoài 50 tuổi nhưng hằng tuần thầy Phan Văn Đằng vẫn vượt 24km đường rừng để đến lớp dạy chữ cho các em |
Em muốn học thật giỏi để sau này làm cô giáo. Có như thế các thầy cô dưới kia không còn phải vất vả lên đây dạy học cho chúng em nữa |
Điểu Thị Lan (học sinh lớp 5, điểm trường thôn 4) |
Trên địa bàn thôn 3, thôn 4 (xã Phước Cát II, huyện Cát Tiên, Lâm Đồng), cộng đồng người S'Tiêng và Châu Mạ nơi đây đã sinh sống qua nhiều thế hệ giữa rừng quốc gia này. Nếu đi từ trung tâm huyện Cát Tiên phải vượt qua quãng đường dài 40 - 50km mới đến được hai điểm trường thôn 3, thôn 4 (thuộc Trường TH xã Phước Cát II).
Còn nếu tính từ trung tâm xã thì mất 13,5km mới đến thôn 3 và 24km mới đến được thôn 4. Tất cả đều phải băng đường rừng.
Băng rừng dạy chữ
Thầy Phan Văn Đằng, người đã có thâm niên dạy học ở điểm trường thôn 4, hằng tuần đều phải vượt chặng đường dài đi từ nhà đến lớp. Để có thể đến lớp vào mỗi sáng thứ hai, từ chiều chủ nhật thầy đã phải chuẩn bị mọi thứ chất lên chiếc xe máy, từ quần áo, sách vở cho đến lương thực đủ dùng trong một tuần.
Thầy bảo: “Mùa nắng còn đỡ chứ mùa mưa phải dắt bộ suốt, nhiều khi phải ở lại lớp mấy tuần liền. Để vượt qua con dốc “cổng trời”, các thầy phải dùng xích quấn vào bánh xe, vậy mà lắm hôm cũng té lên té xuống.
Con dốc "cổng trời" mà thầy Đằng nói đến cao dựng đứng, mỗi khi lên hay xuống dốc thầy Đằng cứ luôn miệng dặn chúng tôi phải cài số 1 đi mới an toàn. Vượt qua con dốc này, băng rừng thêm mười mấy cây số nữa mới đến lớp học.
“Nhiều bữa xe thủng lốp phải dắt bộ mất mấy giờ mới đến được chỗ dạy. Cả người ê ẩm nằm mấy ngày vẫn chưa lại sức” - thầy Đằng chia sẻ.
Không khó đi như đường lên thôn 4, nhưng các cô giáo ở điểm trường thôn 3 cũng phải vượt qua một chặng đường dài lổn nhổn đá cuội. Vì đường dễ đi hơn nên các cô được ưu tiên dạy tại đây.
Đến trung tâm thôn 3, chỉ có hơn 30 nóc nhà với khoảng 150 nhân khẩu sống quây quần bên nhau. Cạnh những mái nhà đơn sơ của người dân trong thôn là dãy lớp học khang trang nằm ngay cạnh phân trạm y tế cũng mới được xây dựng.
Tất cả trẻ trong thôn đều được đến lớp. Điểm trường thôn 3 có bốn phòng học nhưng có đến sáu lớp học từ mầm non đến lớp 5. Do vậy lớp 2 phải học ghép với lớp 3, còn lớp 4 ghép với lớp 5.
Cô Lục Thị Tuyết, giáo viên lớp ghép 2-3, chia sẻ:
“Đây là năm đầu tiên điểm trường này có phòng học mới, trước đây phải học nhờ nhà dân. Hiện tại tổng số học sinh trong thôn là 29 cháu. Lớp 1 có nhiều học sinh nhất là tám cháu, còn lớp 4 ít nhất chỉ có hai cháu.
Học sinh ít nhưng các cô vẫn lên đây bám trường bám lớp để dạy chữ cho các cháu. Đường xa đi lại khó khăn nên cả tuần mấy cô mới về dưới xã một lần để thăm gia đình và mua nhu yếu phẩm.
Giờ đã có nhà công vụ cho bốn cô giáo ở và sinh hoạt nên không phải ở nhờ nhà dân, các cô cũng yên tâm công tác hơn”.
Bà con ở đây đã bao đời rồi, từ đời ông, đời cha của chúng tôi. Vì vậy nếu nói chúng tôi dời đi nơi khác là không thể được. Cũng may có các thầy lên đây dạy học cho bọn trẻ, không thì chúng nó cũng chỉ biết tiếp tục quanh quẩn với cánh rừng này |
Già làng Điểu K’Khen |
Sau giờ học, trò chơi của các em nhỏ chỉ là đánh đáo, bắn bi - Ảnh: G.Bảo |
Giữ rừng và giữ chữ
Năm ngoái, thấy thầy trò thiếu lớp học nên người dân trong thôn 3 đã hiến đất để xây trường. Người hiến đất chính là ông Điểu K’Trang. Ông đã hiến 3 sào đất để xây nhà sinh hoạt cộng đồng (nay dùng làm lớp mầm non), ba phòng học và nhà ở cho giáo viên.
Ông Điểu K’Trang tâm sự: “Bản thân tôi, con cái tôi đã không được học chữ nên khi có các thầy cô lên dạy mình quý lắm, phải góp chút công sức để làm trường học. Trước đây thấy mấy cô không có nơi ở để dạy học, thấy mấy cháu nhỏ phải học trong những căn nhà tạm bợ thì thương lắm”.
Theo lời chủ tịch xã Phước Cát II Đoàn Ngọc Nam, người S'Tiêng và Châu Mạ ở thôn 3, thôn 4 sinh sống giữa vườn quốc gia từ rất lâu đời.
Đến năm 1993, Nhà nước có chủ trương để người dân định cư và lập thôn xóm nơi đây. Từ đó công tác lập hồ sơ để cắm mốc, tách sổ cho người dân cũng được tiến hành.
Đến năm 2013 đã có gần 200ha rừng được tách khỏi vườn quốc gia và cấp sổ đỏ cho 56 hộ dân của hai thôn. Công tác rà soát cấp sổ cho những hộ còn lại vẫn đang được tiếp tục.
Hiện cộng đồng dân cư thôn 3 gồm 32 hộ nhận quản lý, bảo vệ diện tích hơn 1.500ha rừng quốc gia, còn cộng đồng thôn 4 có 29 hộ nhận hơn 1.400ha.
Già làng Điểu K’Mốt (thôn 3) cho biết: “Giữ rừng cũng là một cách để chúng tôi sống với rừng tốt hơn. Giữ rừng còn giúp bà con có tiền (từ dịch vụ chi trả môi trường rừng - PV) để lo cho cuộc sống, để cho con cháu được đến trường, không phải phát nương làm rẫy như cha ông chúng nữa”.
Khó khăn nhất của người dân thôn 3, 4 cũng như của các thầy cô giáo là đường đi về trung tâm xã quá khó khăn và điện thắp sáng cũng chưa có.
Tại điểm trường thôn 4, trong căn phòng tập thể của các thầy, mọi vật dụng đều rất đơn sơ. Không có điện, các thầy không có radio để nghe, không có tivi để xem. Ánh đèn dầu là nguồn sáng duy nhất để các thầy soạn bài vở hằng đêm.
Thầy Đằng tâm sự: “Mình khó một chút cũng không sao, muốn xem tivi thì sang chỗ chốt của mấy anh kiểm lâm gần đấy xem ké. Nhưng thương nhất là bà con, ngay cả lớp học xóa mù chữ ban đêm bà con vẫn phải học dưới ánh đèn măngxông tù mù. Chỉ cần hai tấm pin năng lượng mặt trời là lớp học xóa mù chữ có thể được thắp sáng rồi!”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận