Hóa ra tiếng mẹ đẻ - ngôn ngữ đầu tiên mà ta biết trong đời - không ở trong bộ nhớ mãi mãi, mà vẫn có thể mai một nếu ít được sử dụng.

Chuyện người di cư quên 4từ vựng trong ngôn ngữ mẹ đẻ, diễn đạt câu cú kỳ quặc, hay nói tiếng mẹ đẻ bằng giọng nước sở tại vốn không có gì lạ.

Thách thức lớn hơn với những người đã "quên" ngôn ngữ quê nhà là làm sao truyền lại cho con cái thứ mà chính họ hầu như còn không mấy thông thạo.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 1.

Theo The New York Times, trong suốt một thời gian dài, trọng tâm của ngành ngôn ngữ học hầu như chỉ xoay quanh chuyện làm thế nào học các thứ tiếng.

Nhưng vài thập kỷ trở lại đây, xuất hiện một lĩnh vực nghiên cứu mới - hiện tượng suy mòn tiếng mẹ đẻ (language attrition).

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 2.

Trong Memory Speaks (2021), cuốn sách viết về tình trạng quên ngôn ngữ và hành trình học lại tiếng Czech thời thơ ấu, nhà ngôn ngữ học Julie Sedivy viết:

"Không có độ tuổi nào mà một ngôn ngữ, ngay cả tiếng mẹ đẻ, gắn chặt vào não đến mức không thể bị một ngôn ngữ mới thay thế hoặc thay đổi.

Giống như một gia đình chào đón một đứa trẻ mới, một tâm trí đơn lẻ không thể tiếp nhận một ngôn ngữ mới mà không có tác động nào đến các ngôn ngữ khác đã biết trước đó".

Monika S. Schmid, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực suy mòn ngôn ngữ tại Đại học York, cho biết:

"Khi bạn có hai ngôn ngữ sống trong não, mỗi lần bạn nói điều gì đó, mỗi lần bạn dùng một từ, mỗi lần bạn ghép câu, bạn phải đưa ra lựa chọn. Đôi khi ngôn ngữ này được chọn, nhưng có khi lại là ngôn ngữ kia".

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 3.

Theo Schmid, tuổi tác là yếu tố quan trọng trong việc duy trì ngôn ngữ. Trẻ em từ 8-10 tuổi có thể thành thạo một ngôn ngữ ở trình độ người bản xứ, nhưng nếu ngừng sử dụng trước 12 tuổi, khả năng quên ngôn ngữ đó là rất cao.

Ngôn ngữ được học từ nhỏ thường có sự gắn kết cảm xúc mạnh mẽ, nhưng khi không còn sử dụng, nó có thể phai mờ dần.

Một nghiên cứu về những người đã trưởng thành được nhận nuôi tại Pháp từ Hàn Quốc trong khoảng 3-8 tuổi cho thấy khả năng nhận biết câu tiếng Hàn của họ chỉ ngang ngửa nhóm người Pháp bản ngữ.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 4.

Một nghiên cứu những người di cư Hà Lan đến Úc khi trưởng thành cho thấy thay vì mất đi ngôn ngữ gốc, họ lại có hiện tượng giao thoa ngôn ngữ, tiếng Hà Lan và tiếng Anh bắt đầu trộn lẫn với nhau, họ khó phân biệt và giữ riêng từng ngôn ngữ.

Một số nước, chẳng hạn như Mỹ vốn khét tiếng với lịch sử không khuyến khích phát triển các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, bắt đầu từ các chính sách đối với người thổ dân và tiếp tục qua những tuyên bố của các lãnh đạo, như bức thư Tổng thống Theodore Roosevelt gửi tổ chức chính trị American Defense Society năm 1919:

"Nước Mỹ chỉ có chỗ cho một ngôn ngữ, và đó là tiếng Anh".

Điều này dẫn đến một nền văn hóa đơn ngữ, nơi tiếng Anh được coi là ngôn ngữ duy nhất và các ngôn ngữ nhập cư không có chỗ đứng.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 5.
Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 6.

"Thằng mù lại dắt thằng mù" (The Blind Leading the Blind), tên bức tranh của danh họa Pieter Bruegel đã thành thành ngữ trong tiếng Anh, chỉ việc dẫn dắt người khác khi chính mình còn thiếu hiểu biết.

Những bậc cha mẹ là dân nhập cư thế hệ thứ hai cũng đành sắm vai những thầy mù dắt con cái họ đi trên con đường chinh phục lại tiếng mẹ đẻ, dẫu biết giới hạn ngôn ngữ của bản thân.

Ở Mỹ, theo số liệu của tổ chức phi lợi nhuận American Councils for International Education, chỉ có 20% học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 học ngoại ngữ ở trường, so với con số 100% ở Na Uy, Romania và Luxembourg, hay thấp hơn thì cũng 87% ở Hy Lạp, 69% ở Bồ Đào Nha và 64% ở Bỉ.

Việc khôi phục hay duy trì một ngôn ngữ ngoài tiếng Anh ở trong gia đình thường Mỹ, vì thế phụ thuộc vào nỗ lực riêng lẻ của một cá nhân cụ thể, tác giả Kat Chow viết cho The Atlantic.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 7.

Vấn đề nằm ở chỗ làm thế nào tăng cường tiếp xúc của trẻ khi cha mẹ còn không trôi chảy ngôn ngữ đó.

Những bậc phụ huynh mà Chow phỏng vấn cho chủ đề này hầu hết cho biết bản thân phải chật vật và nỗ lực lắm.

Một trong số đó là Hieu Truong, sống ở thành phố Baltimore, bang Maryland, và có hai con nhỏ.

Trưởng thành trong gia đình người Việt nhập cư từ những năm 1980, Truong chỉ hiểu và nói được một ít tiếng Việt, đủ để gọi món ở nhà hàng nhưng không đủ để đọc báo.

Cô đọc sách thiếu nhi bằng tiếng Việt cho con nghe và cùng con học các từ cơ bản như "ngựa vằn" và "hươu cao cổ" qua sách và thẻ học. Cậu con trai 4 tuổi của Truong giờ đã thành thạo đếm số.

Cô cũng tận dụng các tài nguyên hiện đại như phim, chương trình trên Netflix có phụ đề tiếng Việt và các khóa học tiếng Việt trực tuyến.

Cô không đặt mục tiêu con trai phải thành thạo tiếng Việt, mà chỉ muốn con hiểu và giao tiếp cơ bản, như biết cách chào hỏi và cảm ơn khi gặp ông bà.

Cá nhân cô biết rằng để thành thạo một ngôn ngữ và duy trì trình độ đó khó khăn như thế nào. Cô không muốn tạo áp lực đó lên các con và chính bản thân.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 8.

Betty Choi, bác sĩ nhi khoa ở gần thành phố Santa Barbara, bang California, tác giả của cuốn sách thiếu nhi Human Body Learning Lab, là ví dụ tiêu biểu về việc quyết tâm dạy tiếng mẹ đẻ cho con.

Lớn lên ở thành phố Syracuse, bang New York, Choi muốn kết nối hai con nhỏ của mình với ký ức về cha mẹ quá cố, những người nói các phương ngữ khác nhau của tiếng Trung, và gia đình chồng cô, sống ở xa và nói tiếng Hàn.

Thế là Choi bắt đầu tự học tiếng Quan Thoại và tiếng Hàn Quốc cho bản thân, cũng như để dạy các con.

Cô thử nhiều phương pháp trong vài năm, như tham gia các lớp học ngôn ngữ, thuê người chăm sóc trẻ biết song ngữ và cho các con tiếp xúc với sách, bài hát, video bằng tiếng Trung và Hàn.

Việc cho các con tiếp xúc với tiếng Trung và Hàn bên ngoài khuôn khổ gia đình thì khó hơn vì có ít người Mỹ gốc Á sống ở khu vực nhà Choi.

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 9.

Hiện tại, các con của Choi đã có thể giao tiếp bằng tiếng Quan Thoại và biết một số từ tiếng Hàn.

Thế nhưng, học nhanh bao nhiêu, bọn trẻ cũng quên tiếng Hàn nhanh bấy nhiêu, vì những từ tiếng Anh học ở trường và với bạn bè đã vượt qua lượng tiếng Hàn mà mẹ dạy chúng ở nhà.

Những từ tiếng Hàn mà chúng thường nói hiện nay chỉ còn là: ttong (phân), bang-gu (xì hơi) và saja (sư tử) để chỉ chú thú nhồi bông yêu thích.

Tuy vậy, Choi vẫn giữ tiếng Trung là ngôn ngữ chính khi nói chuyện với các con, dù bọn trẻ có thể trả lời bằng tiếng Anh, tiếng Trung hoặc kết hợp cả hai.

Đồng cảm với Truong và Choi, chính Kat Chow, nguyên quán Trung Quốc, cũng đang bị đứa cháu gái 3 tuổi vượt mặt cả tiếng Quảng Đông lẫn tiếng Trung phổ thông.

Mong muốn duy trì tiếng Quảng Đông, nhưng Chow gặp khó vì không có cộng đồng bản ngữ để giao tiếp hằng ngày.

Sự thiếu vắng này khiến cô chỉ hiểu mơ hồ ngôn ngữ của cha mẹ và cảm thấy bị tách biệt khỏi những ý tứ tinh tế trong các cuộc trò chuyện gia đình.

Cô ao ước có thể thành thạo ngôn ngữ này không chỉ để bù đắp cho những ký ức thiếu hụt thời thơ ấu, mà còn để trải nghiệm sự gần gũi cảm xúc mà nó mang lại.

"Tôi mong muốn con cái của mình có thể kết nối với văn hóa và những khoảnh khắc nhỏ bé đầy ý nghĩa mà chỉ ngôn ngữ mới có thể mang lại" - Chow viết.■

Tiếng mẹ đẻ: Ngỡ mãi không quên, nhưng rồi sẽ mất - Ảnh 10.
PHAN BẢO
VÕ TÂN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên
    - xem bóng đá trực tuyến - 90phut - cakhia - mitom - xoilactv - bóng đá trực tuyến - bóng đá trực tiếp