Sinh viên trong một giờ thực hành an ninh mạng - Ảnh: LƯƠNG NHUNG |
Kết quả dự báo đến năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu hụt hơn 100.000 ứng viên CNTT mỗi năm. Tuy nhiên vấn đề không chỉ dừng lại ở đó...
Sinh viên có nhiều “điểm cộng”, nhưng...
Theo bảng dữ liệu thực hiện trên 10.000 việc làm được đăng tuyển trong năm 2015, số lượng công ty tuyển dụng ở ngành CNTT tăng 69% so với năm 2012, đặc biệt số lượng công ty phần mềm tăng đến 124% chỉ trong vòng bốn năm. Điều này giải thích lý do số lượng việc làm ngành CNTT luôn tăng nhanh (nhưng tập trung chủ yếu vào mảng phần mềm).
Bên cạnh đặc điểm tăng trưởng nhanh, thị trường CNTT Việt Nam còn nổi tiếng chủ yếu nhờ vào dịch vụ gia công phần mềm.
Theo bảng xếp hạng gần đây của Công ty tư vấn Tholons, TP.HCM và Hà Nội luôn nằm trong top 20 thành phố có dịch vụ gia công phần mềm tốt nhất thế giới. Số lượng việc làm dồi dào khiến “cuộc chiến” thu hút, giữ chân nhân tài CNTT giữa các công ty ngày càng gay gắt.
TS Võ Đình Bảy, trưởng khoa CNTT Trường ĐH Công nghệ TP.HCM, cho biết hiện tại nguồn nhân lực cho ngành CNTT đang rất thiếu, số liệu thống kê mỗi năm cả nước cần 80.000 - 100.000 người làm trong ngành CNTT.
Tuy nhiên, trung bình hằng năm có 30.000 sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT và số lượng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp là không nhiều, nhất là những vị trí có khả năng giao tiếp và làm việc với nước ngoài.
“Với nhu cầu như vậy có thể thấy ngày càng khan hiếm nguồn nhân lực làm việc trong ngành CNTT và số lượng thiếu hụt cứ gia tăng mỗi năm. Đa số doanh nghiệp CNTT hiện tại chọn giải pháp săn đón các bạn sinh viên khá giỏi từ năm 3, 4 tại các trường uy tín. Các vị trí tuyển dụng của doanh nghiệp thường tập trung trong phát triển ứng dụng trên nền tảng di động, điện toán đám mây, bảo mật và an ninh mạng, quản trị mạng...” - TS Bảy nói.
Tuy nhiên câu chuyện thiếu nhân lực CNTT không chỉ gói gọn ở số lượng mà còn nằm ở chất lượng. Ông Nguyễn Hoàng Trung, giám đốc điều hành ứng dụng LOZI, cho biết: “Các bạn làm CNTT ở Việt Nam phần lớn có khả năng học hỏi nhanh kiến thức mới, tuy nhiên điểm yếu của các bạn là thiếu sự tìm tòi sâu, rộng lĩnh vực mình làm”.
Đồng quan điểm, bà Lê Diệp Kiều Trang, tổng giám đốc Fossil Việt Nam - Misfit, cho rằng thế mạnh của kỹ sư CNTT Việt là kiến thức về công nghệ vững, nền tảng tốt, một số chịu khó trau dồi kiến thức khi được đào tạo trong môi trường quốc tế.
“Có một nhóm (không nhiều) các bạn rất giỏi và có khả năng đi rất xa, không hề thua kém ngay cả khi so với mặt bằng nhân lực CNTT ở thung lũng Silicon, Hoa Kỳ” - bà Kiều Trang khẳng định.
Tuy vậy, bà Kiều Trang cũng chỉ ra điểm hạn chế thường thấy ở các kỹ sư Việt là nhanh thỏa mãn, khi làm được một sản phẩm tương đối tốt là chóng hài lòng, không đào sâu để hoàn thiện sản phẩm ở mức tinh tế hơn, hoặc nâng quy mô sản phẩm lớn hơn. Điều này khiến các bạn khó “đấu” lại ở thị trường công nghệ quốc tế đang hết sức cạnh tranh.
Học chuyên sâu sẽ dễ kiếm việc
Ông Trần Anh Tuấn, phó giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP.HCM, cho biết ngành CNTT có rất nhiều lĩnh vực như công nghệ phần mềm, kỹ thuật mạng, công nghệ nội dung số và phát triển phần mềm di động, game... đều là những lĩnh vực phát triển rất nhanh và có nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực.
Thị trường ngành CNTT thay đổi hằng năm. Nếu trước đây chúng ta chỉ biết về phần cứng, phần mềm và mạng máy tính thì ngày nay đã có nhiều lĩnh vực mới được mở rộng như tích hợp hệ thống, công nghệ di động, thương mại điện tử, game...
ThS Nguyễn Trọng Trung, hiệu trưởng Trường trung cấp nghề Công nghệ Bách khoa, cho biết nhân lực CNTT ngày càng đi sâu vào ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực cụ thể như thiết kế mẫu mã, trang trí nội - ngoại thất, lập trình điều khiển tự động, công nghệ giải trí...
“Trong thời gian tới, doanh nghiệp tuyển dụng nhân sự CNTT theo hướng tay nghề của ứng viên phải tốt, có hiểu biết sâu về công việc, có đầu óc sáng tạo, chịu khó, cần cù học hỏi trong thời gian làm việc” - ThS Trung nói.
Theo ThS Nguyễn Hoàng Anh - hiệu trưởng Trường CĐ nghề CNTT iSpace, hiện nay chúng ta đang thiếu nguồn nhân lực CNTT lành nghề, có chuyên môn cụ thể về một lĩnh vực nào đó trong ngành CNTT. Nếu học CNTT chung chung, cơ hội có được những công việc tốt sẽ khó hơn.
Thị trường Nhật Bản hiện cần nhiều chuyên viên CNTT có tay nghề, biết tiếng Nhật, đi làm việc tại Nhật với mức lương cao và rất nhiều chế độ ưu đãi. Các công ty chuyên gia công và triển khai giải pháp liên quan đến CNTT cho thị trường các nước, trong đó có Nhật Bản, đang cần tuyển dụng nhiều nhân viên tại Việt Nam.
ThS Nguyễn Hà Giang, phó trưởng khoa CNTT Trường ĐH Công nghệ TP.HCM, cho biết nguyên nhân hiện nay nhiều bạn học CNTT ra không xin được việc làm, hoặc làm trái ngành là do kỹ năng được đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp.
Vì thế nói về khả năng “xuất khẩu” nhân lực CNTT trong nước ra quốc tế, đặc biệt các quốc gia lân cận, đa số nhà tuyển dụng đều cho rằng nếu có thì số lượng sẽ rất khiêm tốn.
Ông Trần Anh Tuấn cho biết theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp chuyên ngành CNTT, khoảng cách giữa đào tạo tại các trường ĐH, CĐ, kể cả trường trung cấp với thực tế nhu cầu sử dụng nhân lực ngành CNTT tại doanh nghiệp là quá xa. Đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa giỏi kiến thức, kỹ năng và ngoại ngữ. “Số sinh viên ra trường làm việc được ngay chỉ chiếm khoảng 30%, còn lại phải đào tạo bổ sung. Theo thống kê của Viện Chiến lược CNTT và truyền thông, hiện nay 72% sinh viên ngành CNTT không có kinh nghiệm thực hành, 42% thiếu kỹ năng làm việc nhóm” - ông Tuấn nói. |
Để có thể cạnh tranh trên đấu trường quốc tế, nhân lực CNTT của chúng ta phải bổ sung, nâng “chuẩn” nhiều kỹ năng. Chẳng hạn như kỹ năng phân tích và thiết kế hệ thống không chỉ ở bối cảnh trong nước mà ở tầm khu vực” - ông Hải Phạm, giám đốc kỹ thuật Công ty Ticketbox, cho biết. Trong khi đó bà Phương Mai, giám đốc khu vực phía Nam - Công ty tuyển dụng nhân sự cấp cao Navigos Search, cho rằng nhân lực CNTT nước ta cần trang bị “hành trang” gồm các yếu tố bắt buộc sau: ngoại ngữ tốt, trình độ chuyên môn cao (đặc biệt có những chứng chỉ quốc tế như MCITP, CCNA/CCNP, PMP, Network+/A+... mới có thể cạnh tranh ở môi trường toàn cầu hóa. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận