Trước thềm phiên họp về giáo dục đại học của Hội đồng Quốc gia về giáo dục và phát triển nhân lực, GS.TS Nguyễn Hữu Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội) gửi tới Tuổi Trẻ bài viết về những suy nghĩ con đường phát triển của giáo dục đại học Việt Nam.
Xin giới thiệu và mong nhận được ý kiến, phản hồi của bạn đọc. Bài cộng tác xin gửi về [email protected].
Bàn về giáo dục đại học Việt Nam, chuyên gia này trích dẫn phân loại của Hoa Kỳ, chuyên gia khác dùng hệ thống của Đức và Hà Lan. Sắp tới, có thể một số chuyên gia lại tiếp tục trao đổi tiếp các khái niệm đại học quốc gia, đại học trọng điểm trong quy hoạch mới...
Tự chủ đại học là một chủ trương đúng đắn và là xu thế tất yếu, đang tạo cơ hội phát triển cho đại học nước nhà. Tuy nhiên, cùng với việc "cởi trói", cần quan tâm đến các nguy cơ sau đây và triển khai thật căn bản và bền vững.
Giao tự chủ phải giao sứ mạng, mục tiêu
Các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) công lập nói chung là thuộc sở hữu toàn dân, tránh việc chỉ giao đại diện chủ sở hữu cho một hội đồng hoặc cá nhân mà không giao sứ mạng và các định hướng, chỉ số phát triển. Hiện nay đang có tình trạng ấy.
Với lý do Nhà nước không giao nguồn lực, không giao chỉ số phát triển nên một số hội đồng trường và hiệu trưởng chưa quan tâm đầy đủ tới sứ mạng của trường mà chỉ tập trung lo các mối lo học phí trước mắt, chưa quyết tâm thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (ĐMST).
Thu nhập của giảng viên đã tăng, nhưng các chỉ số về nghiên cứu khoa học (NCKH), ĐMST và phục vụ cộng đồng vẫn đang bị chững lại.
Sau một giai đoạn hội nhập khá dài, GDĐH và khoa học công nghệ nước ta vẫn nằm ở vị trí top 5 ASEAN. Cán cân giữa đào tạo - NCKH - phục vụ cộng đồng càng ngày càng chênh lệch. Xu thế này có thể phá vỡ tính hệ thống và thành quả xây dựng mạng lưới các trường đại học định hướng nghiên cứu và ĐMST trong thời gian vừa qua.
Do vậy, khi giao tự chủ phải giao sứ mạng, mục tiêu và KPIs. Không những năng lực quản trị của hội đồng trường phải cao, mà trách nhiệm giám sát của thành viên đại diện cơ quan quản lý trực tiếp trong hội đồng trường phải cụ thể.
Đặc biệt, đồng thời với việc giao sứ mạng, Nhà nước cũng cần giao kèm với nguồn lực, đảm bảo phát triển quy hoạch hệ thống.
Tránh "làm đại"
Tự chủ được trao để "làm" đại học, nhưng có nơi cũng đang "làm đại" - làm theo kinh nghiệm, chủ quan và "sờ voi". Các khái niệm thuộc phạm trù, tiếp cận phát triển chương trình đào tạo, ngay cả mô hình đại học nghiên cứu, đại học ứng dụng cũng còn đang được hiểu khác nhau. Đại học có phải nghiên cứu không?
Mô hình đại học khởi nghiệp ĐMST là gì? Làm sao để phân biệt, đo lường đánh giá được chất lượng giáo dục khác nhau giữa các trình độ bậc 5 (cao đẳng) và bậc 6 (đại học) trong khung trình độ quốc gia?...
Khi không mường tượng được khái niệm và mô hình, con đường phát triển của giáo dục sẽ rất mông lung.
Trong trường hợp này, việc ban hành một bộ tiêu chuẩn cơ sở GDĐH Việt Nam có triết lý, quan điểm phát triển, mô hình và các khái niệm thật tường minh sẽ giúp định hình một hệ thống GDĐH của quốc gia, thay vì chỉ có một số chỉ số phục vụ kiểm đếm.
Đây là điểm mấu chốt để đổi mới giáo dục phát triển bền vững, không làm mất công các thế hệ sau phải đổi mới lại.
Nguy cơ lạm dụng kiểm định chất lượng
Ở các quốc gia có nền đại học chất lượng nhất, kiểm định chất lượng là bắt buộc. Ở nước ta, kiểm định chất lượng đã được áp dụng, văn hóa chất lượng bắt đầu được tạo dựng.
Tuy nhiên, với cách làm như hiện nay, rất dễ gây nên bệnh hình thức và lạm dụng việc kiểm định chất lượng để cung cấp thông tin không đầy đủ đến các bên liên quan.
Nhiều cơ sở giáo dục tham gia kiểm định chất lượng còn mang tính đối phó, phong trào; một số kiểm định viên còn lý thuyết, cứng nhắc, chưa có nhiều kinh nghiệm.
Về thực chất, hiện nay bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nước ta đang tiếp cận theo tiêu chuẩn đánh giá mức độ đảm bảo chất lượng (quality assurance assessment) chứ chưa phải là kiểm định chất lượng (quality accreditation/audit).
Đành rằng vẫn hy vọng có quy trình và điều kiện đảm bảo tốt sẽ có chất lượng tốt, nhưng thực chất hai thông tin này khác nhau, còn có khoảng cách. Vậy nên, các giấy chứng nhận của Việt Nam và Hệ thống đại học ASEAN (AUN) hiện nay là chứng nhận đạt các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, như là điều kiện tối thiểu để các trường được hoạt động.
Còn chất lượng và đặc biệt là mức độ chất lượng giữa các trường chưa được phân biệt rõ. Các cơ sở GDĐH tuyên bố đạt chuẩn chất lượng (quốc gia) là chưa phù hợp, dễ gây hiểu lầm cho nhiều phía.
Sau một giai đoạn tiếp cận với quy trình, nguyên lý, đã đến lúc Việt Nam không nên tránh né nữa, cần có bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đúng nghĩa. Kiểm định và phân loại, làm cơ sở đầu tư nguồn lực.
Thêm vào đó, cần nghiên cứu giải pháp để nâng cao hơn nữa năng lực đánh giá và tư vấn cho đội ngũ kiểm định viên, không chạy theo số lượng.
Nghịch lý khởi nghiệp và chuyển đổi số
Có dịp tiếp cận hoạt động của nhiều cơ sở GDĐH, có thể thấy đã có sự năng động khá phổ biến trong việc mở các ngành học mới đáp ứng nhu cầu xã hội và chính sách thưởng, khuyến khích công bố quốc tế, đăng ký sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn nặng nỗ lực "vì chính mình" (for itself), còn trách nhiệm vì cộng đồng (for others) và sự phát triển bền vững chưa rõ nét.
Các chương trình đào tạo được nói cập nhật liên tục, nhưng còn vụn vặt và ít thay đổi căn bản. Trong kỷ nguyên số mà môn học tin học cơ sở thời nào vẫn còn nguyên, chưa trường nào tăng cường năng lực số, năng lực khởi nghiệp một cách căn cốt cho người học.
Thế giới đang có xu thế mở các chương trình đào tạo cử nhân định hướng đổi mới sáng tạo (bachelor of innovation) thay thế dần cho các chương trình cử nhân truyền thống (bachelor of sciences và bachelor of arts), nhưng vấn đề đó vẫn còn lạ lẫm ở nước ta.
Ở đâu cũng nói chuyển đổi số, nhưng nội hàm là gì và đã đầu tư cho nhiệm vụ này được bao nhiêu kinh phí thì còn là nghịch lý.
Để vươn tới khát vọng Việt Nam 2045
Phát triển mà không có gia tăng, không có sản phẩm mới thì nguy cơ rất cao. Cả nước ta đang nỗ lực thay đổi căn bản, toàn diện giáo dục.
Mục tiêu này nếu chỉ nhằm để có sự phát triển tịnh tiến theo kiểu năm trước đã đạt được mức một, năm sau sẽ tiến lên mức hai, ba, thậm chí đến 100 cũng đã là tốt, nhưng vẫn chưa đạt kỳ vọng.
Để vươn tới khát vọng Việt Nam 2045, GDĐH phải tiếp cận đổi mới sáng tạo, tạo ra sự gia tăng kiểu từ mức 0 đến mức 1, từ phiên bản A đến phiên bản mới B theo cơ chế, cách thức mới về bản chất chứ không phải từ A1 đến A2, A3 là các phiên bản mới của cách thức cũ.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận