Nhóm cựu binh E4 F5 trước nhà ga Sophie hoang tàn cạnh quốc lộ 5, gần ngã ba đường vào Takong Krao - Ảnh: L.Đ.DỤC
Chỉ mới cuối tháng 3, nhưng bầu trời vùng biên giới Tây Nam giữa Campuchia và Thái Lan vần vũ mây đen báo hiệu mùa mưa năm nay đến sớm.
“Bọn tôi quay lại thắp nhang cho anh em đồng đội đây. Sống khôn thác thiêng thì khoan mưa đã, đợi cúng xong ra tới quốc lộ rồi hẵng mưa nha”, anh Phạm Sỹ Sáu và mấy anh em cựu binh cứ khấn thầm như vậy trên chuyến xe từ quốc lộ 5 vào phum Takong Krao.
"Ngày giỗ trận" ở Takong Krao
Một thời tuổi trẻ làm tình nguyện quân ở Campuchia, các anh quá hiểu mưa xuống sẽ thế nào trên những con đường đất vào sâu trong các phum sóc gần biên giới Thái - Cam như thế này.
Sok Sophal, tài xế chiếc xe 16 chỗ ngồi chở anh em trong đoàn đi, vẫn còn ám ảnh bởi chuyện lúc sáng xe đã mắc lầy ở Phnom Srok, nhìn trời rồi nói một tràng tiếng Cam, dáng chừng lo ngại lại sa lầy tiếp nếu trời trút mưa. Hai bên đường hun hút những trảng rộng và cây bụi lúp xúp không một bóng nhà.
Đã là ngày thứ ba chúng tôi theo chân các cựu binh của trung đoàn 4, sư đoàn 5 (E4, F5 - Quân khu 7) trở lại với chiến trường xưa ắp đầy ký ức của những năm tháng làm lính tình nguyện. Điểm đến sắp tới là Takong Krao, nơi từng xảy ra trận đánh bi tráng vào ngày 23-4-1980, trận đánh như một vết thương trong quân sử của sư đoàn mà những cựu binh của E4, F5 mỗi lần gặp nhau đều nhắc đến.
Từ quốc lộ 5 vào Takong Krao, xe chạy trong tiếng sấm ì ầm và chớp rạch trời. Điểm định vị trận địa cũ trong ký ức anh em là một ngôi chùa tháp khá lớn. Rồi ngôi chùa cũng hiện ra khi hoàng hôn chuẩn bị sập xuống. Đã có vài hạt mưa lắc rắc.
Nhang đèn vàng mã, gạo muối... anh em mang theo từ Việt Nam được bày biện ra ngay trên con đường xuyên qua cánh đồng còn lúp xúp những bụi cây.
Hơn 60 người lính của trung đoàn 4, sư đoàn 5 đã nằm lại ngay trên những thửa ruộng của phum Takong Krao này trong trận đánh ấy.
Một người lính trong muôn ngàn người lính...
Anh Phạm Sỹ Sáu ngậm ngùi nhớ về những đồng đội rất trẻ đã nằm lại, trong đó có hạ sĩ Nguyễn Việt Hùng, một thanh niên nhập ngũ lứa "hồng binh" của tuổi trẻ thành phố vào năm 1978.
Là tiểu đội phó bộ binh, Hùng hát hay, đàn giỏi, sáng tác được nhạc. Hùng là "thị dân" quận 3 ở Sài Gòn, học sinh Trường Lê Hồng Phong. Chưa đủ tuổi, nhưng anh tìm mọi cách để vào lính.
"Hùng rất có năng khiếu, mấy lần tôi đề xuất rút Hùng về ban tuyên huấn trung đoàn nhưng Hùng thích ở đơn vị hơn. Trước trận Takong Krao mấy ngày, gặp Hùng tôi nhắc, nhưng Hùng bảo: Anh để em đánh trận này xong rồi sẽ về đội tuyên văn trung đoàn với anh. Nhưng rồi Hùng hi sinh trong trận Takong Krao" - anh Phạm Sỹ Sáu hồi tưởng về người em, người đồng đội như thế.
Thấy chúng tôi soạn đồ lễ cúng trên con đường đất băng ngang qua trảng ruộng, mấy người dân trong phum Takong Krao ra xem với vẻ tò mò. Một người dân cho biết năm trước, khi nạo vét hồ sen trước ngôi chùa của phum, dân đã tìm thấy hai bộ hài cốt, di vật kèm theo là chiếc bi đông của bộ đội tình nguyện Việt Nam, nhà chùa đã bàn giao cho đội quy tập hài cốt liệt sĩ.
Chiếc bi đông đựng nước gần như là vật bất ly thân của lính tình nguyện trong những trận chiến mùa khô trên đất bạn.
Sau chuyến vào Takong Krao, khi trở về tôi có nhìn thấy ảnh chụp của một bức tranh về trận đánh mà một cựu binh nhờ một họa sĩ vẽ theo ký ức. Bức tranh vẽ những người lính cuối cùng tụ lại dưới một hố cạn, dường như lả đi vì khát. Trong số những người lính hi sinh tại trận Takong Krao ấy, có người đã chết vì khát!
Không biết có phải hồn thiêng anh em hiển linh mà dù ầm ào dông sấm, mây đen vần vũ nhưng trời chỉ giọt lác đác vài hạt mưa. Khi anh em rót rượu, hóa vàng xong xuôi và khấn: "Thôi tối rồi, bọn tôi còn đi tiếp, anh em đừng buồn, sẽ sớm có ngày trở lại thăm anh em".
Chiếc xe vượt qua mười lăm cây số trên con đường đất lồi lõm ổ gà sũng nước từ Takong Krao ra tới quốc lộ 5, ngược lên ngã ba Nimith thì trời bỗng đổ mưa như trút...
Ác địa Cao Melai hôm nay - Ảnh: L.Đ.DỤC
Cao Melai - miền đất voi phải bỏ đi
Takong Krao được anh em cựu binh lưu dấu như một vết thương bởi trận chiến ngày 23-4-1980, nhưng địa danh ám ảnh nhất với những người trên đất bạn lại là Cao Melai - hay Phnom Melai, một nơi được mệnh danh là "thủ đô của... mìn và sốt rét".
Hình ảnh đáng nhớ nhất về Cao Melai mà bất cứ người lính nào cũng không thể quên là con đường từ quốc lộ 5 vào Cao Melai, ngay ngã ba Nimith có bức tượng một con voi hướng mặt ra đường và quay mông lại hướng núi Cao Melai (ngã ba này còn gọi là ngã ba Con Voi).
Bức tượng con voi ấy được người dân trong vùng giải thích: Cao Melai rừng thiêng nước độc đến độ voi cũng không chịu đựng nổi phải bỏ đi! Vậy mà những người lính tình nguyện đã bám trụ ở đó cả chục năm trời giúp nước bạn.
Chúng tôi hạ trại làm lễ cúng ở một địa điểm có lẽ là cao nhất trên đồi Cao Melai.
Ngọn đồi này gần như là hiện thân của tất cả những gì gian nan, khốc liệt nhất của . Sau khi Campuchia được giải phóng, hầu hết tàn quân của Pol Pot cùng các sắc quân khác đều co cụm dọc theo biên giới, dài từ vùng ngã ba biên giới Thái - Lào - Cam, qua rặng Dângrek (phía bắc Campuchia) qua Poipet, Pailin và xuôi về tận biển, nhưng những căn cứ mạnh nhất đều nằm dọc khu vực Cao Melai.
Trung đoàn 4 của F5 được đưa lên đây trong giai đoạn đầu, sau đó địa bàn khốc liệt này được giao cho trung đoàn 2, cũng thuộc sư đoàn 5.
Đây là đơn vị có nhiều kinh nghiệm về trận mạc vùng biên bởi E2 vốn là trung đoàn công an vũ trang (sau này đổi thành bộ đội biên phòng). Mấy anh em cựu binh đi cùng khuyên tôi: "Em muốn tìm hiểu về Cao Melai kỹ hơn thì tìm cựu binh E2 công an vũ trang, cũng là lính của sư đoàn 5".
Sốt rét và mìn!
Trên hành trình chuyến đi, nhờ tương tác với các cựu binh trên mạng xã hội, tôi may mắn kết nối được với anh Nguyễn Đức Thảo - đại úy, đại đội trưởng đại đội 5 (tiểu đoàn 2, E2 F5) và anh Lê Trung Chánh - thượng úy, đại đội phó đại đội 7, cùng tiểu đoàn với anh Thảo.
Anh Chánh là thương binh, với cánh tay phải đã gửi lại trên chiến trường đất bạn.
Anh Nguyễn Đức Thảo hồi tưởng: "Từ Việt Nam, lính mới bọn tôi chỉ một giờ đồng hồ máy bay là hạ cánh xuống Siem Reap, rồi theo xe cơ giới hành quân lên hướng Sisophon. Từ đây hành quân xuyên rừng mấy hôm là đặt chân lên Cao Melai.
Giờ chúng tôi vẫn nhớ tượng con voi cũ ngày xưa, không phải con voi trắng đỏm dáng với bành voi tô màu xanh đỏ như bây giờ. Con voi ở ngã ba Nimith ấy được lính kháo nhau đi về hướng đầu của nó, hay cùng lắm đi về hướng hai bên hông nó còn có hi vọng, chứ đi về hướng đuôi nó thì khó mà về với mẹ. Nghe thế nhưng lính trẻ mà, có lệnh là đi, sợ gì?
Đến Cao Melai, về nhận đơn vị ở tiểu đoàn, rồi xuống đại đội, trung đội. Tôi còn nhớ như in cái cảnh giữa trưa nắng mà chỉ huy phải quấn chăn bông nhận quân vì sốt rét rừng. Những gương mặt lính cựu ai cũng vàng võ, tái mét, chúng tôi nghĩ "thế này thì làm sao đánh đấm được", vậy mà hôm sau địch tập kích, anh em lại tung chăn lao ra công sự phản kích. Xong trận đánh lại lao về chụp vội cái chăn cuộn lên".
Chỉ về đơn vị chưa được mười ngày, anh Thảo chứng kiến ngay cảnh đồng đội lên cơn sốt rét chết ngay trước mắt. Những trận sốt ác tính quật lính chết không kịp trở tay. Có người đang ngồi ăn cơm bỗng lên cơn ngã lăn ra, hồng cầu vỡ hết, chết rất nhanh. Có người đang đi bỗng té nhủi xuống, đồng đội chạy đến đỡ thì đã tắt thở.
Câu chuyện về độ khốc liệt của hu vực giáp biên Thái - Cam này sẽ khó đủ để kể hết, nhưng anh Thảo chỉ nói về một con số đủ cho tôi hình dung: "Sau ngày rút quân về nước, anh em trong đơn vị cũ đi tìm thăm mộ phần đồng đội, hầu như nghĩa trang nào cũng có mộ của anh em tiểu đoàn 2. Chỉ riêng tiểu đoàn tôi, quân số duy trì khoảng 200, nhưng số anh em thương vong lên đến hơn 300 người".
Sau sốt rét, sự tàn sát của mìn sát thương luôn là nỗi ám ảnh của lính. Mìn chất đầy các kho áp biên giới Thái từ viện trợ của nước ngoài. Đám tàn quân này thông thuộc địa hình địa vật nên đêm đêm mò ra gài mìn dày đặc, chúng lại lắm mưu mẹo nên anh em rất khó tránh.
Trong hồi ức của mình khi đơn vị đóng ở Mohon (sau khi được tư lệnh mặt trận Lê Đức Anh cho lùi về đây), anh Thảo vẫn nhớ như in chuyến đi nhận quân nhu của 20 anh em đơn vị.
Khi ấy là sau mùa mưa dài, tiểu đoàn bị cô lập đến mức muối cũng không còn, anh em háo hức ra trung đoàn nhận hàng. Không ngờ chuyến mang hàng trở về ấy, một người trong đội giẫm phải mìn KP2, loại mìn mà khi giẫm trúng, nó bật lên chừng ngang thắt lưng mới phát nổ theo kiểu phát quang. Quả mìn KP2 ấy đã cướp đi sinh mạng gần chục anh em.
Đã 35 năm qua rồi, nhớ về chuyến đi tiếp liệu ấy, anh Thảo vẫn thấy như đau nhói trong lồng ngực: "Chuyến ấy anh em chỉ nhận được chưa đến 20kg đậu xanh. Coi như cái giá mất một tay súng của tiểu đoàn chúng tôi chỉ đổi được chưa đến hai ký đậu". Chiến tranh luôn có những điều phi lý như thế!
Cựu binh Nguyễn Đức Thảo (bìa trái) và Lê Trung Chánh (bên phải) cùng đồng đội về thăm lại Cao Melai - Ảnh: PHAN VĂN TRÍ
Đại úy Nguyễn Đức Thảo ngậm ngùi: “Tiểu đoàn mất quân nhiều đến độ trung đoàn phải cắt lính từ các tiểu đoàn khác bổ sung cho tiểu đoàn 2. Có đợt bổ sung về 30 người, nhưng đã hi sinh hết 28 người. Anh vợ của anh Chánh, anh Đinh Văn Quang, cũng là lính bổ sung đợt 30 anh em ấy.
Trong một trận phản kích quân Pol Pot, trận đánh đã giải quyết xong, anh Quang đứng lên quan sát trận địa thì một viên đạn bắn vu vơ từ phía bên kia đã găm đúng tim anh.
Thấy anh té xuống, mọi người cứ nghĩ anh đùa. Nhưng khi ào đến, anh đã tắt thở, viên đạn hú họa của quân Pol Pot chỉ để lại một lỗ nhỏ trên ngực trái đã cướp đi sinh mạng của anh.
Chính anh Chánh, khi tiểu đoàn về chốt ở huyện Chikaren (Siem Reap) đã bị một quả mìn cướp mất cánh tay phải”.
Trích nhật ký chiến trường của đại úy Phạm Sỹ Sáu
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu thắp nhang cho các đồng đội hi sinh ngày 23-4-1980 đang được an táng tại nghĩa trang liệt sĩ TP - Ảnh: L.Đ.DỤC
"23-4-1980. 5h sáng, thức giấc vì tiếng nổ của các loại súng hỏa lực vọng về từ phum Takong Krao. Điệu này thì chắc là trận đánh ác liệt lắm đây. Quả đúng như thế. Khoảng 8h, mình qua ban tham mưu E nắm tình hình thì biết rằng bị mất liên lạc với D3 (tiểu đoàn 3) và địch đang phản kích, D3 đang gặp khó khăn.
Đến chiều thì liên lạc vô tuyến với D3 cũng được một lúc rồi mất luôn. Như thế là mọi phán đoán của ta đều không chính xác. Địch đông hơn ta tưởng và hỏa lực cũng khá mạnh. Thương vong khá cao. Một số vì trúng đạn và một số vì khát nước.
Từ sáng đến giờ, anh em D3 có người nào được uống nước đâu, trong khi phải nằm chịu trận giữa rừng thưa với cái nóng bốc lửa trên đầu...".
"25-4-1980. Đến chiều nay vẫn còn hơn 30 đồng chí nữa của D3 chưa về. Chắc số lớn trong đó đã hi sinh, số ít có thể bị địch bắt hoặc chạy lạc trong rừng. Một tình trạng nghiêm trọng chưa từng thấy"...
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận