Theo dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 17/2019 về khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa, giá vé máy bay hạng phổ thông trên 4 đường bay nội địa sẽ tăng từ 2,27% - 6,67%, tăng trung bình là 3,75% (bằng mức giá trần của năm 2014).
Cụ thể: nhóm đường bay có khoảng cách dưới 500km giữ nguyên mức giá trần 1.600.000/vé một chiều với đường bay phát triển kinh tế - xã hội và 1.700.000 đồng/vé một chiều với nhóm đường bay khác dưới 500km như hiện nay.
Giá vé phổ thông bốn nhóm đường bay còn lại có mức tăng từ 50.000 - 250.000 đồng/vé/chiều tùy theo độ dài từng đường bay.
Mức giá tối đa nói trên đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho một vé máy bay trừ các khoản thu: thuế giá trị gia tăng; các khoản thu hộ cho cảng hàng không gồm giá phục vụ hành khách và giá đảm bảo an ninh hành khách, hành lý; khoản giá dịch vụ với các hạng mục tăng thêm.
Trước đó, lý giải với Bộ Giao thông vận tải trong quá trình xây dựng dự thảo thông tư về khung giá vé máy bay nội địa, Cục Hàng không cho biết mức giá trần vé máy bay nội địa hiện tại được quy định tại thông tư 17/2019 được áp dụng từ năm 2015. Thời điểm đó giá nhiên liệu bay Jet A1 ở mức khoảng 60 USD/thùng.
Đến nay các yếu tố hình thành giá vé máy bay đã thay đổi, đặc biệt là giá nhiên liệu tăng và tỉ giá đều tăng cao, mức giá tối đa hiện tại không còn phù hợp.
Theo số liệu cập nhật của Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA), giá nhiên liệu Jet A1 khu vực châu Á ngày 2-6-2023 là 85,4 USD/thùng.
Theo tính toán của Cục Hàng không, với giả định tỉ trọng chi phí nhiên liệu chiếm 39,5% tổng chi phí, các yếu tố chi phí khác không có biến động thì với biến động của giá Jet A1 và tỉ giá USD/VND, chi phí nhiên liệu tháng 6-2023 của các hãng hàng không tăng 23,1% so với tháng 9-2015. Tác động của giá nhiên liệu làm tổng chi phí tăng 10,9% so với tháng 8-2015.
Cục Hàng không đã nhận được ý kiến của Vietnam Airlines, Vietjet, Pacific Airlines, Bamboo Airways về tăng giá vé máy bay nội địa.
Theo Vietnam Airlines, chi phí nhiên liệu hàng không chiếm khoảng 36% chi phí vận chuyển của hãng. Giá nhiên liệu trung bình năm 2022 so với năm 2015 (thời điểm mức giá trần hiện tại được áp dụng) tăng khoảng 85% từ 67,3 USD/thùng lên 124,4 USD/thùng khiến chi phí của hãng tăng khoảng 30,5%.
Mặt khác chi phí vận chuyển hàng không có hơn 70% bằng ngoại tệ trong khi doanh thu bán vé tại Việt Nam lại bằng VND. Tỉ giá tăng 6,6% từ năm 2015 đến năm 2022 (tăng bình quân từ 21.900 VND/USD lên 23.350 VND/USD) làm chi phí của Vietnam Airlines tăng tương ứng 4,3%.
Do đó chi phí vận chuyển hành khách của Vietnam Airlines năm 2022 là 2.769 đồng/khách/km, cao hơn 43% so với chi phí năm 2015 (1.933 đồng/khách/km).
Theo Cục Hàng không, để tháo gỡ khó khăn cho các hãng hàng không Việt Nam do biến động chi phí đầu vào tăng cao nhưng đồng thời hạn chế tác động đến xã hội trong giai đoạn phục hồi kinh tế sau dịch COVID-19, mức tăng giá trần vé máy bay nội địa bằng mức của năm 2014 (tăng trung bình 3,75% so với hiện hành) là phù hợp.
Sẽ có thêm nhiều mức giá vé máy bay
Cục Hàng không cho biết hiện nay giá vé máy bay được thực hiện theo cơ chế giá linh hoạt. Với đường bay nội địa, các hãng xây dựng và kê khai với nhiều mức giá từ thấp đến cao tùy theo điều kiện vé, thời điểm xuất vé, tình hình thị trường…
Việc tăng giá trần vé máy bay nội địa không đồng nghĩa với việc các hãng hàng không đồng loạt tăng giá vé.
Ngược lại chính sách sẽ tạo điều kiện cho các hãng có thêm dư địa để thực hiện chính sách giá vé linh hoạt, giãn biên độ giữa các mức giá vé, đưa thêm nhiều chương trình, chính sách phù hợp, đáp ứng nhu cầu của hành khách.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận