Luật sư trao đổi với điệp viên O.Penkovsky trong phiên tòa xử ông
CIA chọn một sĩ quan trẻ đang làm việc tại Ban Xô viết ở Tổng hành dinh Langley đi thực hiện sứ mạng bắt liên lạc với . Đấy là một trẻ đầy nhiệt huyết đã từng hoạt động ở Đức, biết một chút ít tiếng Nga. CIA đặt mật danh cho điệp viên này là Compass.
Tuy nhiên, điệp vụ của Compass gặp khó khăn hơn rất nhiều so với CIA hình dung. Dù đi bất cứ đâu trong Moscow, Compass cũng bị một đội giám sát của KGB theo sát gót, không hở ra dù chỉ một giây.
Liên hệ trực tiếp với O.Penkovsky, lúc này mang mật danh Chalk, không được, Compass đề xuất sử dụng hộp thư chết trên phố Pushkinskaya theo như đề nghị trong bức thư thứ hai của O.Penkovsky. Muốn vậy, phải tìm cách báo cho Chalk biết.
Compass muốn vẽ một ký hiệu nào đó trên bức tường xung quanh khu Nhà Mỹ để thông báo cho Chalk, nhưng bản thân bức tường này, theo Compass, cũng bị KGB giám sát chặt. Cũng không có cách nào báo cho Chalk biết là sẽ có ký hiệu trên bức tường này...
Cho tới tận tháng 12-1960, tức là hai tháng sau khi Compass tới Moscow, CIA vẫn không có cách nào liên lạc được với O.Penkovsky.
Trong khi Compass loay hoay thì O.Penkovsky cũng tìm đủ mọi cách để tự mình thiết lập đường dây với tình báo phương Tây.
Cơ hội xuất hiện khi một đoàn đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp của Anh được cử tới Liên Xô để bàn chuyện làm ăn. Thu xếp cho việc này là Greville Maynard Wynne, một thương gia người Anh 41 tuổi, đang làm tư vấn kinh doanh cho các công ty điện, thép và chế tạo máy của Anh muốn làm ăn tại Đông Âu và Liên Xô.
Ngày 8-12-1960, một đoàn gồm 12 đại biểu như vậy đã tới thăm Liên Xô. Là người của GKKNIR, O.Penkovsky được giao nhiệm vụ làm sĩ quan liên lạc, chịu trách nhiệm thu xếp mọi chi tiết cho chuyến viếng thăm.
G.Wynne (bìa phải) trong phái đoàn thương gia sang Liên Xô năm 1960
Trong thời gian đi cùng đoàn, O.Penkovsky đã cố gắng tiếp xúc với tiến sĩ A.D.Merriman, một chuyên gia về kim loại học.
Khi tiễn đoàn ra sân bay Sheremetievo ở Moscow để quay về Anh, chỉ 5 phút trước khi A.D.Merriman lên máy bay, O.Penkovsky kéo riêng vị tiến sĩ kim loại học ra một chỗ rồi nói:
"Tôi biết là ông không muốn dính đến rắc rối, nhưng việc tôi liên lạc được với Sứ quán Mỹ thực sự rất quan trọng. Ông hãy nói với họ là hãy gọi cho tôi vào số máy 717-184 vào lúc 10h sáng mỗi chủ nhật. Tất cả những gì cần làm chỉ là gọi vào số máy đó và tôi sẽ chỉ dẫn cho họ biết cần làm gì tiếp theo".
CIA được tiến sĩ A.D.Merriman báo lại thông tin có được từ O.Penkovsky nên bật đèn xanh cho Compass gọi điện thoại cho O.Penkovsky. Đã 4 tháng trôi qua kể từ khi đặt chân tới Moscow, Compass vẫn không có cách nào thoát khỏi sự đeo bám của KGB.
Sáng hôm ấy, chủ nhật 5-2-1961, Compass bấm số 717-184, nhưng thay vì thực hiện cuộc điện thoại vào lúc 10h sáng thì mãi tới 11h trưa Compass mới gọi. Một sai lầm thứ hai nữa là lẽ ra phải nói tiếng Nga thì Compass lại nói bằng tiếng Anh.
O.Penkovsky nhấc máy nhưng với vốn tiếng Anh hạn chế, không hiểu Compass nói gì! Hơn thế nữa, cuộc gọi đã không đến đúng vào thời gian đã định. O.Penkovsky gác máy. Kết nối thất bại.
Đến lúc này thì CIA nhận thấy không thể chần chừ nữa. CIA quyết định liên lạc với Chalk thông qua kênh của Cục Tình báo Anh MI6. Hai bên thống nhất sẽ thành lập một đội đặc nhiệm hỗn hợp CIA - MI6 để cùng nhau xử lý điệp vụ O.Penkovsky.
Các nhân viên tình báo Anh và Mỹ đi tới nhận định thống nhất rằng cách an toàn nhất để tiếp cận với O.Penkovsky không phải bằng các điệp viên chuyên nghiệp mà qua một nhân viên dân sự.
Người thích hợp nhất cho nhiệm vụ này là Greville Maynard Wynne, doanh nhân người Anh đã tổ chức cho đoàn đại diện các công ty của Anh tới thăm Liên Xô hồi đầu tháng 12-1960.
Vị trí triển khai tên lửa của Liên Xô tại Cuba năm 1962
Điệp viên Dickie Franks, người điều hành Ban DP4 trong MI6, mời G.Wynne đi ăn trưa tại London. D.Franks đề nghị G.Wynne cộng tác với MI6 bằng việc quay lại Liên Xô và thiết kế một đoàn đại biểu của các doanh nghiệp và nhà khoa học Liên Xô sang thăm Anh để "đáp lễ" chuyến thăm Liên Xô trước đó.
Cần phải làm sao để O.Penkovsky là một thành viên trong đoàn này. Khi đã tới được London, cách xa mọi sự giám sát ngặt nghèo của KGB thì việc bắt mối với O.Penkovsky mới dễ dàng. G.Wynne nhận lời.
Sáng 20-4-1961, phái đoàn Liên Xô tới sân bay Heathrow và được G.Wynne đón về khách sạn Mount Royal. Nhóm tình báo hỗn hợp Anh - Mỹ thuê phòng số 360 trong khách sạn, ngay tầng trên nơi phái đoàn Liên Xô ở.
Hai điệp viên Mỹ trong nhóm là J.Bulik và George "Teddy Bear" Kisevalter, một người biết tiếng Nga khá tốt. Còn hai người MI6 là H.Shergold và một sĩ quan trẻ tên là Mike Stokes.
Lúc hơn 8h tối, O.Penkovsky gõ cửa phòng và bước vào. Trong cuộc nói chuyện này, O.Penkovsky đã thuật lại sơ yếu lý lịch bản thân, lý giải nguyên nhân thúc đẩy mình chủ động tiếp xúc với tình báo phương Tây.
Một phần vì O.Penkovsky cảm thấy thất vọng với tình trạng trì trệ của xã hội và quân đội Xô viết; mặt khác bất mãn vì đã mang quân hàm đại tá 11 năm nhưng hầu như không có cơ hội nào để có thể leo lên cấp tướng, bởi những phát hiện mới của KGB về người cha Bạch vệ đã đóng sập mọi cánh cửa thăng tiến của O.Penkovsky.
O.Penkovsky cũng cho biết mình không có ý định đào thoát, bỏ gia đình ở lại Liên Xô. O.Penkovsky chỉ hi vọng một ngày nào đó sẽ có được một cấp hàm trong quân đội Mỹ, đồng thời cần những khoản tiền để chuẩn bị cho cuộc sống sau này; trước mắt, O.Penkovsky nói mình cần khoảng 10.000 rúp tiền mặt để có thể mua được một nhà nghỉ ở ngoại ô.
Việc có nhiều tiền không gây ra sự nghi ngờ bởi ở Liên Xô, những ai từng ra nước ngoài như O.Penkovsky đều có thể tiết kiệm những khoản tiền lớn.
G.Kisevalter nói sẽ cung cấp tất cả những gì cần thiết như O.Penkovsky yêu cầu, đồng thời một khoản tiền hằng tháng sẽ được rót vào một tài khoản nhà băng cho O.Penkovsky.
Quá trình kết nối với một trong những điệp viên quan trọng nhất mà tình báo Anh - Mỹ có được thời kỳ Chiến tranh lạnh đã hoàn thành.
Kỳ tới: Những thông tin tối mật
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận