Việc đánh giá phẩm chất khoa học của một cá nhân không hề dễ dàng mà phải qua nhiều bước - Ảnh minh họa: Royal Society of Chemistry
Làm sao để định nghĩa phẩm chất khoa học của một cá nhân? Qua những trải nghiệm cá nhân, tôi có thể nói rằng những yếu tố hay đặc điểm sau đây được sử dụng để đánh giá phẩm chất khoa học của ứng viên:
1. Tập san và tầm ảnh hưởng
Ở Việt Nam, nhiều người rất quan tâm đến số lượng bài báo khoa học như là một tiêu chuẩn cho chức vụ giáo sư. Điều này không hẳn đúng. Số lượng bài báo chỉ thể hiện năng suất và mức độ hoạt động nghiên cứu khoa học; nó không phản ảnh phẩm chất khoa học.
Một ứng viên có thể có nhiều bài báo, nhưng điều quan trọng hơn là những bài báo đó công bố trên những tập san nào. Những công trình nghiên cứu chất lượng thấp chỉ có thể công bố trên những tập san có uy tín thấp và ảnh hưởng thấp.
Uy tín và tầm ảnh hưởng của một tập san có thể xem qua "impact factor" (IF); tập san có impact factor cao là một (chỉ "một" thôi) tín hiệu cho thấy đó là công trình có phẩm chất tốt. Chẳng hạn như công trình của BS Lan và cộng sự trên New England Journal of Medicine (IF 72) là một công trình có phẩm chất rất cao.
Nhưng có bài trên một tập san lừng danh vẫn chưa đủ. Hội đồng thường phải xem xét đến quá trình công bố của ứng viên trong quá khứ xem có bao nhiêu lần có bài trên những tập san nổi tiếng, chứ không phải chỉ 1 hay 2 bài là đủ.
Họ phải xem xét đến vai trò của ứng viên trong bài báo (bởi vì có nhiều ứng viên làm quản lí chỉ là 'ăn theo' chứ chẳng có đóng góp đáng kể). Ở Úc, có nhiều ứng viên có bài trên Science hay Nature mà vẫn chưa đủ để được xét bổ nhiệm chức vụ giáo sư, bởi vì thành tựu đó chưa được xem là vững chắc.
Không có hội đồng nghiêm chỉnh nào mà đọc hết hàng trăm bài báo của ứng viên. Người ta chỉ yêu cầu ứng viên trình bày 5 bài trong 5 năm qua và 5 hay 10 bài trong sự nghiệp để đánh giá. Đó cũng là cách mà ĐH Tôn Đức Thắng đang làm.
Cần nói thêm rằng đã có khá nhiều tác giả ở Việt Nam công bố bài trên những tập san dỏm (predatory journals) hay tập san phi chính thống. Nếu người ngồi trong hội đồng xét duyệt hồ sơ giáo sư không có kinh nghiệm công bố khoa học thì khó có thể biết tập san nào là dỏm và tập san nào là thật. Nếu đánh giá sai thì sẽ gây tác hại đến ứng viên và khoa học Việt Nam.
2. Số trích dẫn (Citation)
Một tín hiệu quan trọng khác là tần số trích dẫn. Một bài báo có thể công bố trên tập san có IF thấp nhưng có trích dẫn cao thì vẫn là một công trình có phẩm chất cao. Do đó, các hội đồng bổ nhiệm giáo sư thuộc các đại học tiên tiến chẳng mấy quan tâm đến số bài báo, mà họ rất quan tâm đến số trích dẫn.
Ngay cả các nhóm xếp hạng đại học, họ cũng chỉ quan tâm đến số trích dẫn, chứ không phải số bài báo. Tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng, chỉ số trích dẫn là một yếu tố gần như quyết định để vượt qua vòng đầu trong xét duyệt bổ nhiệm chức vụ giáo sư.
Dĩ nhiên, số trích dẫn cũng có vấn đề của nó. Thứ nhất, số trích dẫn phụ thuộc vào ngành nghiên cứu (ngành khoa học xã hội thường có trích dẫn thấp hơn y khoa chẳng hạn); do đó, số trích dẫn phải được xem xét trong mỗi ngành bằng cách dùng chỉ số RCI (relative citation index).
Thứ hai, có bài báo (số ít) sai về phương pháp nên người ta trích dẫn để cảnh báo, và trong trường hợp này người xét duyệt phải là người trong ngành để biết. Có nhiều người có xu hướng tự trích dẫn bài của mình và qua đó nâng cao số trích dẫn; điều này đòi hỏi người xét duyệt phải am hiểu và có phương tiện để phân tích trích dẫn cho chính xác.
Các nhà khoa học trong một buổi lễ trao giấy chứng nhận chức danh phó giáo sư - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
3. Chỉ số H (H index)
Đây là một chỉ số rất quan trọng của một nhà khoa học. Chỉ số H phản ảnh tầm ảnh hưởng của một nhà khoa học trong chuyên ngành, và nó được tính từ số trích dẫn và số bài báo khoa học. Do đó, có thể nói rằng chỉ số H là một dung hoà giữa lượng và phẩm.
Theo tác giả của chỉ số H, một nhà khoa học với H = 20 sau 20 năm làm khoa học có thể xem là một nhà khoa học thành công; chỉ số H = 40 sau 20 năm làm khoa học được xem là xuất sắc, thường hay thấy ở các đại học hàng đầu hay viện nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; chỉ số H = 60 sau 20 năm làm nghiên cứu được xem là thật sự cá biệt.
Tác giả đề nghị rằng người có chỉ số H khoảng 12 có thể xem tương đương với giảng viên (lecturer hay senior lecturer), và người có H khoảng 18 trở lên có thể xem tương đương với đẳng cấp giáo sư.
Nhưng chỉ số H tuỳ thuộc vào ngành (vì nó được tính từ số trích dẫn). Do đó, để đánh giá đúng hơn, chỉ số H cần phải được chuẩn hoá, bằng cách lấy ngành vật lí làm chuẩn. Một lần nữa, phải là người am hiểu về trắc lượng khoa học và am hiểu nghiên cứu khoa học mới có thể đánh giá đúng chỉ số H.
4. Tác động xã hội (Societal impact)
Các chỉ số vừa kể chỉ phản ảnh tầm ảnh hưởng trong khoa học; cái mà chúng ta cần phải xem xét đến là tầm ảnh hưởng đến xã hội, đến thực hành. Do đó, ngoài những chỉ số định lượng, hội đồng còn phải xem xét ứng viên đã có những nghiên cứu nào được chuyển giao cho xã hội hay cho chuyên ngành.
Chẳng hạn một nghiên cứu dẫn đến thay đổi chẩn đoán loãng xương thì đó được xem là tác động chuyên ngành, hay một nghiên cứu làm thay đổi chính sách y tế thì đó là tác động xã hội.
5. Công nhận của đồng nghiệp (Peer recognition)
Một tiêu chuẩn khác để đánh giá phẩm chất khoa học của một cá nhân là sự công nhận từ đồng nghiệp. Những hình thức công nhận thường là:
• giải thưởng trong chuyên ngành;
• 'fellowship' của các hội hay tổ chức khoa học danh giá;
• được mời giảng trong các hội nghị quốc tế;
• được mời làm chair các phiên họp trong các hội nghị quốc tế;
• thành viên trong ban biên tập các tập san chính thống;
• ngồi trong các hội đồng xét duyệt hồ sơ giáo sư của các trường đại học "top 100".
Chú ý những chức danh như "visiting professor" hay "honorary professor" cho dù của đại học danh giá nào cũng chẳng có giá trị để xét duyệt, bởi vì đó không phải là hình thức recognition. Ở
6. Thu hút nghiên cứu sinh và hậu tiến sĩ
Một tín hiệu quan trọng khác để đánh giá phẩm chất khoa học của một giáo sư là đào tạo. Hội đồng thường xem xét đến số nghiên cứu sinh mà ứng viên đã đào tạo, và quan trọng hơn là họ đang làm gì, ở đâu (có phải ở những trường viện nổi tiếng).
Số lượng hậu tiến sĩ đến "đầu quân" để làm việc cũng là một tín hiệu về phẩm chất và tầm ảnh hưởng. Rất hiếm có trường nào (nước ngoài) đề bạt một người lên chức vụ giáo sư mà ứng viên đó chưa đào tạo được một tiến sĩ nào.
7. Tài trợ cho khoa học
Hội đồng xét duyệt cũng rất chú ý đến số tiền và số dự án được tài trợ từ những tổ chức khoa học có uy tín (ví dụ như ARC và NHMRC của Úc, hay NSF và NIH của Mĩ). Được tài trợ là một tín hiệu "được công nhận" và phẩm chất khoa học.
Người có nghiên cứu tốt thì mới có khả năng thu hút tài trợ; và khi đã thu hút tài trợ họ phải có công bố khoa học tốt mới có khả năng thu hút tiếp. Do đó, tín hiệu về tài trợ khoa học là quan trọng để đánh giá phẩm chất khoa học của một cá nhân.
Trên đây chỉ là vài 'tín hiệu' mà các đại học phương Tây dùng để đánh giá phẩm chất khoa học của một ứng viên. Đã là phẩm chất thì không có chuyện 'cân đo đong đếm'.
Có những tiêu chuẩn không thể định lượng được, bởi vì không có chỉ số nào có thể phản ảnh đầy đủ. Tất cả phải được đặt trong bối cảnh, và thảo luận trực tiếp trong hội đồng (có khi thảo luận với ứng viên trong buổi phỏng vấn).
Tất cả các tín hiệu trên đòi hỏi người ngồi trong hội đồng xét duyệt phải am hiểu qui trình nghiên cứu khoa học và công bố khoa học. Lí do là vì họ là người trong cuộc và có trải nghiệm, nên họ biết đánh giá tầm quan trọng và các 'luật chơi'.
Những hậu tiến sĩ hay những giáo sư chưa có ngồi trong các hội đồng biên tập tập san thì có thể hiểu biết được 'luật chơi' khoa học. Những người chưa bao giờ điều hành labo nghiên cứu (hay chỉ làm nghiên cứu một mình) thì không thể nào biết hết được qui trình nghiên cứu khoa học thực nghiệm để đánh giá đúng.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận