
Đại biểu Trần Văn Khải - Ảnh: Media Quốc hội
Sáng 25-3, các đại biểu Quốc hội chuyên trách cho ý kiến về dự thảo Luật Công nghệ số.
Đại biểu Quốc hội đề xuất miễn giảm thuế thu nhập cho chuyên gia công nghệ
Nêu ý kiến thảo luận, đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) nói dự luật đã đưa ra một số ưu đãi nhằm đào tạo và thu hút nhân lực cho công nghiệp công nghệ số thông qua các chính sách như hỗ trợ học bổng; thu hút chuyên gia nước ngoài; trọng dụng nhân tài.
Tuy nhiên, việc thu hút nhân lực, nhất là tài năng công nghệ số, đòi hỏi cạnh tranh quốc tế rất cao.
“Để thu hút được nhân tài quốc tế và tránh việc chảy máu nhân tài trong nước thì các chính sách ưu đãi phải vượt trội, đặc thù, đặc biệt như nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã xác định. Đồng thời phải đủ sức cạnh tranh với các quốc gia khác”, ông Nghĩa nói.
Do đó ông Nghĩa đề nghị cơ quan soạn thảo báo cáo thêm các chính sách ưu đãi của một số quốc gia trong khu vực ASEAN để cung cấp thêm thông tin cho đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Trần Văn Khải (Hà Nam) nhận định dự luật đã quy định chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài công nghệ số, nhưng “còn chung chung, chưa cụ thể hóa những ưu đãi vượt trội".
Theo ông, dự luật chưa có quy định miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia công nghệ cao, hay tạo thuận lợi về thủ tục lưu trú dài hạn cho chuyên gia nước ngoài.
Dự thảo luật cũng thiếu chính sách thu hút sinh viên giỏi vào các ngành công nghệ chiến lược.
“Những hạn chế này khiến chúng ta khó cạnh tranh thu hút chất xám, nguồn nhân lực chất lượng cao tiếp tục thiếu hụt”, ông Khải nói.
Ông kiến nghị bổ sung các chính sách nhân tài mang tính đột phá như miễn, giảm thuế thu nhập cho chuyên gia công nghệ; đơn giản hóa thủ tục lưu trú cho chuyên gia nước ngoài và tăng cường hỗ trợ đào tạo nhân tài công nghệ số.
Những giải pháp trên, ông Khải cho rằng sẽ thể chế hóa định hướng nghị quyết 57, tạo lợi thế cho Việt Nam trong cạnh tranh nhân lực chất lượng cao.
Nội dung nữa, dự thảo luật lần này đã có bước tiến với quy định cơ chế thử nghiệm. Song theo ông Khải, phạm vi thử nghiệm còn quá hẹp, bỏ sót nhiều đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, dự thảo luật cũng liệt kê nhiều hành vi bị cấm rất chung chung và đặt thêm một số điều kiện kinh doanh.
“Cách quản lý quá thận trọng này sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại Việt Nam”, ông Khải nêu.
Ông kiến nghị mở rộng phạm vi thử nghiệm cho mọi sản phẩm, dịch vụ công nghệ số mới chưa được pháp luật điều chỉnh; đơn giản hóa thủ tục phê duyệt thử nghiệm; lược bỏ các quy định cấm, điều kiện không thực sự cần thiết.
“Cần trao quyền cho Chính phủ tạm thời cho phép thí điểm những công nghệ, mô hình mới chưa có luật điều chỉnh (báo cáo Quốc hội sau) nhằm kịp thời nắm bắt cơ hội phát triển”, ông Khải góp ý.
Ông Nghĩa thì đề nghị cơ quan soạn thảo báo cáo thêm ưu điểm và hạn chế cũng như tác động của việc thực hiện các quy định hiện hành về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, để làm cơ sở thực tiễn cho đại biểu Quốc hội xem xét.
"Mỏ vàng dữ liệu" chưa được khai thác
Góp ý thêm về dữ liệu số, ông Khải nói dự luật chưa thể hiện rõ chủ trương nghị quyết 57, coi dữ liệu số là tài nguyên chiến lược, đòi hỏi "đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính" và phát triển kinh tế dữ liệu.
Ông ví dụ, dự luật không có điều khoản nào thúc đẩy việc mở dữ liệu công hoặc phát triển thị trường dữ liệu.
“Cách tiếp cận thận trọng này dẫn đến "mỏ vàng dữ liệu" chưa được khai thác, doanh nghiệp thiếu nguyên liệu phát triển trí tuệ nhân tạo, làm giảm sức cạnh tranh”, ông Khải nhận định.
Từ đó, ông Khải kiến nghị bổ sung các quy định thúc đẩy kinh tế dữ liệu như nguyên tắc "dữ liệu mở" và chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp; hình thành các trung tâm, sàn giao dịch dữ liệu.
Về trí tuệ nhân tạo, đại biểu Quốc hội Phạm Trong Nghĩa nhất trí với cách tiếp cận của dự thảo luật.
Nhưng đề nghị bổ sung nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, đồng thời bảo đảm quyền cũng như trách nhiệm pháp lý của người sản xuất, của chủ sở hữu, chủ quản lý đối với trí tuệ nhân tạo.
Dự thảo luật quy định 4 loại hệ thống trí tuệ nhân tạo: nhóm 1 - rủi ro cao; nhóm 2 - không rủi ro cao; nhóm 3 - tác động lớn; nhóm 4 - trí tuệ nhân tạo khác.
Như vậy, hệ thống trí tuệ nhân tạo vừa được phân chia theo tiêu chí “mức độ rủi ro” vừa được phân theo tiêu chí “tác động lớn”. “Chúng tôi cho rằng việc phân chia cần được xác định theo một tiêu chí để từ đó có biện pháp quản lý phù hợp”, ông Nghĩa nói.
Ông đề nghị tham khảo cách thức phân chia theo 4 mức độ rủi ro Đạo luật về trí tuệ nhân tạo (AI Act 2024) của EU để hoàn thiện dự thảo luật.
Đó là, mức 1: rủi ro không thể chấp nhận - cấm hoàn toàn; mức 2: rủi ro cao - quy định nghiêm ngặt.
Mức 3: rủi ro hạn chế - yêu cầu minh bạch và mức 4 là rủi ro tối thiểu/ít rủi ro cho tự do phát triển.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận