Có lẽ do ảnh hưởng cách dịch của Ngọc Thứ Lang, khi chuyển ngữ tiểu thuyết The Godfather của Mario Puzo tại miền Nam năm 1969: Từ nghĩa gốc "người đỡ đầu" khi sang tiếng Việt trở thành "bố già", và đã được hiểu qua nghĩa ông trùm - người nhiều quyền lực, uy lực có thể can thiệp mọi nơi mọi chốn.
Một khi từ "bố già" được hiểu theo nghĩa ông trùm, dần dà nó "lấn lướt" qua mặt các từ khác cùng nghĩa như đầu sỏ, ông gộc.
Trước đó, "bố già" chưa hiểu như nghĩa ông trùm. Năm 1945, nhà thơ Đồ Phồn viết: "Lãi tháng bố già xơi ngọt xớt/ Cơm ngày cậu cả sống ngon ơ". Bố là tía, cha, ba, quen thuộc trong cách xưng hô. Mới lên chức bố, chưa già, vẫn còn trẻ, vừa sinh được con gái, mọi người gọi "bố đĩ"; đẻ con trai gọi "bố cu". Ngoài ra người ấy, còn gọi bố gì nữa?
Khi cụ Nguyễn Khuyến viết câu đối: "Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, khi vận tía lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ/ Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng con răng trắng, tím gan tím ruột với ông xanh". Qua các sắc màu ấy, ta biết cụ viết hộ người phụ nữ có chồng làm nghề thợ nhuộm; từ "bố đỏ" cho biết anh chồng ấy chết trẻ, chỉ mới vừa có con.
Do đâu từ "bố già" nhanh chóng được chấp nhận qua nghĩa "ông trùm"? Theo tôi, vì từ trùm không hề xa lạ trong tâm thức của người Việt.
Từ xa xưa, thành ngữ đã có câu "Ăn nói trùm lợp" là người đó nói, chửi mắng tới tấp, liên tục, trùm lên ý kiến của mọi người, không phân biệt, không kiêng nể ai. Trùm còn là phủ kín.
Không chỉ kẻ cầm đầu băng nhóm, hiểu theo nghĩa xấu mà ngay cả những ai lương thiện, đứng đầu phường hội, làng nghề cũng gọi ông trùm, chẳng hạn trùm phường chèo. Nay, còn gọi bầu như ông bầu gánh hát…
Từ ông còn dùng để gọi con vật mà thiên hạ sợ hãi, kiêng dè như ông ba mươi/ ông thầy (cọp); ông tượng/ ông nậy (voi); ông tý (chuột)… Ngay cả một số vật dụng quen thuộc cũng có cách gọi như vậy, chẳng hạn ông bình vôi; ông núc/ bếp núc tức ông táo/ ông bếp/ ông công.
Với người dân miền biển còn có tục thờ cá voi, gọi tôn kính cá ông. Khi mất, cá ông dạt vào bờ người ta tin rằng "Thấy ông vào làng như vàng vào tủ" và gọi ông lụy.
Khó có thể giải thích vì sao khi dọa trẻ con, người ta lại nhắc đến ông kẹ, ông ngáo ộp, ông ba bị?
Ở Nam bộ xưa còn có câu Ông Hoành ông Trấm - nhằm chỉ người ngang ngược, hung dữ thì lại "có tích có tuồng": Đó là tên hai vị tướng theo giúp Lê Văn Khôi (con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt) nổi dậy chống lại triều Nguyễn năm 1833.
Dù không biết mặt mũi ra làm sao nhưng vẫn được gọi ông, chẳng hạn ông làng - tổ hát bội, ông táo, ông địa, ông thần tài, ông thiên lôi…
Những ông này chẳng ai dám giỡn mặt nhưng ông tơ lại khác, "Quất ông tơ cái trót/ Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần/ Biểu ổng se mối chỉ năm bảy lần, ổng không se". Ông tơ, còn có tên gọi khác là ông mai. Mai là mai mối, làm mối cho việc dựng vợ gã chồng.
Còn ông bộ thì sao? Tục ngữ còn lưu lại câu: "Một người làm quan cả họ được nhờ". Nhưng làm quan thái giám thì cái sự được nhờ ấy lại lớn lao hơn nhiều, vì không chỉ riêng trong một họ, một dòng tộc mà cả làng còn được nhờ. Do đó, mới có câu "Đẻ ông bộ cho làng nhờ" là vậy.
Nói một cách ngắn gọn, ông bộ là người trung tính, lúc mới sinh ra đã không có bộ phận sinh dục gọi là giám sinh/ ông bộ nắp; còn người tự hoạn để được tuyển chọn hầu hạ trong cung cấm thì gọi giám lặt/ ông bộ thiến.
"Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo". Ông bà ông vải là tiếng gọi các bậc gia tiên. Nhưng "Con ông cháu cha" thì lại là con, cháu của người khác mà ngầm ý đó là những người có thế, có máu mặt, chẳng khác gì ông hoàng bà chúa, ông to bà nậy.
Những đứa trẻ láu lỉnh, tinh quái, nghịch ngợm trổ trời còn được gọi ông mãnh. Với quan niệm của người Việt thì "ông mãnh bà cô" còn được hiểu là những người chết yểu lúc còn trẻ, chưa lập gia đình hoặc bà cô, ông chú vẫn sống "đơn thân độc mã", phòng không chiếc bóng cho đến lúc mất.
Đôi khi gọi ông nhưng lại hàm ý xem thường. "Ông tiền ông thóc ông cóc gì ai"- sở dĩ gọi bằng ông vì lắm tiền, nhiều thóc chứ nào có đáng gì ông.
Nói cách khác "ông gì ông ổng", chỉ gọi ông cho văn vẻ, đỡ chướng tai. Nếu nói huỵch toẹt ra, chỉ đáng gọi thằng/ thằng ông mà thôi. "Thánh cắt ông vào chủ việc thi/ Đêm ngày coi sóc chốn trường quy/ Chẳng hay gian dối vì đâu vậy? Bá ngọ thằng ông biết chữ gì". Có thể nói "thằng ông" là từ mới mẻ của Tú Xương cũng như Bà chúa thơ Nôm đã sáng tạo ra từ "lộn lèo".
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận