Đây là một thắng lợi lịch sử, tiếp nối Công ước của Liên Hiệp Quốc (LHQ) về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) trong việc xây dựng và thực thi trật tự pháp lý trên biển vì hòa bình, hợp tác, phát triển và môi trường trong sạch. Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 120 ngày được ít nhất 60 nước thành viên LHQ phê chuẩn.
Vì sao phải có BBNJ?
UNCLOS đã xác định rõ các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển là nội thủy, lãnh hải 12 hải lý, đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Tuy nhiên UNCLOS không có điều khoản nào đề cập cụ thể tới việc tiếp cận, sử dụng và chia sẻ lợi ích các nguồn đa dạng sinh học biển nằm ngoài những vùng thuộc quyền tài phán quốc gia.
Công ước về đa dạng sinh học năm 1992 (CBD) và Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gene và chia sẻ công bằng, hợp lý lợi ích từ việc sử dụng nguồn gene năm 2010 có đưa ra một số khái niệm về "đa dạng sinh học", "tài nguyên sinh học", "tài nguyên gene" và "nguyên liệu gene". Song các quy định này chủ yếu điều chỉnh việc quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học tại các khu vực thuộc quyền tài phán quốc gia.
Hiện nay đa dạng sinh học tại vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia đang bị cạnh tranh vì những lợi ích kinh tế to lớn mà nguồn gene biển mang lại, nhất là trong cung cấp thực phẩm, nguyên liệu sản xuất dược phẩm và mỹ phẩm.
Các nguồn gene biển hiện đối mặt nhiều nguy cơ dẫn đến suy giảm, thậm chí là biến mất ở nhiều loài sinh vật biển do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, axit đại dương và các hoạt động bất hợp pháp làm ô nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên của con người. Nhằm quản lý tốt tài nguyên này, LHQ đã triệu tập Hội nghị quốc tế về BBNJ.
Hiệp định BBNJ gồm phần mở đầu và 76 điều khoản. Trong phần mở đầu, các nước nhấn mạnh tầm quan trọng của các điều khoản UNCLOS, trong đó có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Hiệp định nhấn mạnh sự cần thiết tôn trọng cân bằng các quyền, nghĩa vụ và lợi ích được quy định trong UNCLOS, và nhận thức sự cần thiết một chế độ toàn cầu toàn diện theo công ước để giải quyết tốt hơn việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia.
Hiệp định cũng có mục tiêu bảo đảm việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại các vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia cho hiện tại và tương lai lâu dài, thông qua việc thực thi các quy định của hiệp định và sự hợp tác, phối hợp tương lai. Như vậy, Hiệp định BBNJ không phải độc lập mà là sự tiếp nối, nhắc lại các quy định có liên quan của UNCLOS.
Đàm phán căng thẳng
Phần I của hiệp định (điều 1-8) là các điều khoản chung về định nghĩa thuật ngữ, phạm vi, nguyên tắc, mối quan hệ giữa hiệp định với các văn bản khác và hợp tác quốc tế.
Trong đó, điều 7 liệt kê 14 nguyên tắc và cách tiếp cận như: bên gây ô nhiễm phải trả tiền; nguyên tắc di sản chung của loài người được quy định trong UNCLOS; nguyên tắc công bằng, ngay thẳng và phân bổ công bằng các lợi ích. BBNJ cũng tính đến lợi ích của các đảo quốc nhỏ đang phát triển hoặc ít phát triển và các quốc gia đang phát triển không có biển.
Phần II gồm 8 điều khoản (9-16) đề cập đến "nguồn gene biển", phân chia lợi ích công bằng và ngay thẳng. Điều 1 khoản 8 định nghĩa nguồn gene biển là "bất kỳ chất liệu nào thuộc nhóm thực vật biển, động vật biển, vi sinh vật biển, hoặc các loại sinh vật biển nguyên gốc khác, chứa các bộ phận chức năng có tính di truyền với giá trị thực tế hoặc tiềm năng".
Đây là đề xuất của các nước đang phát triển muốn liệt kê chi tiết các dạng nguồn gene biển. Chúng có thể có nguồn gốc trong vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia nhưng cũng có thể từ vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia di chuyển vào. Các điều khoản trong phần này không áp dụng cho việc đánh bắt cá nhằm mục đích thương phẩm hay các hoạt động liên quan đến nghề cá đã được điều chỉnh bằng luật quốc tế thích hợp.
Đàm phán về BBNJ tập trung trên câu hỏi quản lý hiệp định theo nguyên tắc nào: di sản chung của loài người hay tự do biển cả. Các nước phát triển cho rằng nguyên tắc tự do biển cả sẽ được áp dụng với tài nguyên gene biển. Theo đó mọi quốc gia, thể nhân, pháp nhân đều có quyền khai thác, sử dụng tài nguyên gene biển.
Điều này sẽ tạo ra sự bất bình đẳng ghê gớm khi công nghệ khai thác gene biển, quy trình công nghiệp và xử lý sinh học để sản xuất dược phẩm, mỹ phẩm, các sản phẩm thương mại khác đều nằm trong tay các nước phát triển. Mỹ, Đức và Nhật Bản chiếm 70% bằng sáng chế về gene biển.
Các nước G77 thì kiên quyết bảo vệ nguyên tắc di sản chung của loài người là nền tảng pháp lý cho một chế độ công bằng trong bảo tồn và sử dụng bền vững BBNJ, bao gồm cả việc tiếp cận và chia sẻ lợi ích của tài nguyên gene biển - MGR. Bởi lẽ, trong khi tài nguyên gene biển được các nước phát triển khai thác chủ yếu thì nạn nhân của ô nhiễm môi trường biển là toàn nhân loại.
Theo nguyên tắc phát triển bền vững, tất cả các nước đều có nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho cả thế hệ mai sau. Kết quả nhượng bộ giữa hai nhóm quan điểm được thể hiện trong cách tiếp cận thực tế tại điều 7.
Có lợi cho Việt Nam
Phần III gồm 10 điều (17-26), trong đó bao gồm vùng bảo vệ biển. Theo phần này, vùng bảo vệ biển không được bao gồm bất cứ vùng nào nằm dưới quyền tài phán quốc gia. Nó cũng không được là cơ sở cho việc thừa nhận hay từ chối bất kỳ yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán, kể cả các tranh chấp liên quan đến chúng.
Hội nghị các quốc gia thành viên sẽ không xem xét các đề xuất như vậy. Trong mọi trường hợp, các đề xuất này không được hiểu như sự công nhận hay không công nhận bất kỳ yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán nào.
Tựu trung lại, Hiệp định BBNJ là một bổ sung cho UNCLOS, nằm trong khuôn khổ UNCLOS và không thay thế những nguyên tắc cơ bản của UNCLOS.
BBNJ được xây dựng trên nguyên tắc di sản chung của loài người và tự do biển cả. Đồng thời nhấn mạnh nguyên tắc tính đến các nhu cầu và ưu tiên của các nước đang phát triển. Điều này tạo ra lợi thế lớn cho Việt Nam và các nước đang phát triển trong việc xây dựng và thực thi một trật tự pháp lý trên biển công bằng, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và lợi ích quốc gia của tất cả các thành viên trong cộng đồng quốc tế.
Hiệp định BBNJ với những định nghĩa mới và cụ thể về nguồn gene biển, về công cụ quản lý vùng, đánh giá tác động môi trường với cơ chế thông tin minh bạch, xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển đã góp phần thay đổi phương thức quản trị đại dương và biển, khắc phục những tồn tại hiện nay.
BBNJ còn gồm những phần nào?
Phần IV về đánh giá tác động môi trường, phần V về xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, phần VI là các quy định về tổ chức. Phần VII chỉ có 1 điều khoản về các quy định tài chính. Phần VIII về cách thực thi và tuân thủ. Phần IX quy định về giải quyết tranh chấp gồm 6 điều (56-61).
Trong đó, các bên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng mọi biện pháp hòa bình quy định trong điều 33 Hiến chương LHQ và tuân theo thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định trong phần XI của UNCLOS. Các phần còn lại X, XI, XII liên quan đến mối quan hệ với các văn kiện khác, với bên thứ ba và các thủ tục phê chuẩn, có hiệu lực.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận