Vợ chồng tôi có một con gái năm nay 19 tuổi. Thời gian gần đây cháu không tập trung học tập và không hay tâm sự với tôi như trước. Tôi đã kiểm tra tin nhắn Zalo, Messenger của cháu nhưng không phát hiện bất thường.
Hôm qua, trong lúc kiểm tra điện thoại thì cháu thấy nên rất giận và nói "ba xâm phạm đời tư của con là vi phạm pháp luật". Tôi cũng không rõ làm như vậy có vi phạm gì không?
Một bạn đọc gửi câu hỏi đến Tuổi Trẻ Online.
Luật sư NGUYỄN CÔNG TÍN - Đoàn luật sư TP Đà Nẵng - trả lời về việc phụ huynh kiểm tra điện thoại của con:
1. Quy định của pháp luật về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được nêu rõ tại điều 21, Hiến pháp năm 2013.
Điều 38, Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy định cụ thể:
Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, căn cứ các quy định pháp luật, việc bạn tự ý đọc tin nhắn của con gái là đã xâm phạm quyền về đời sống riêng tư của con gái bạn.
2. Hành vi xâm phạm quyền về đời sống riêng tư, tùy theo tính chất, mức độ có thể sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về chế tài hành chính:
Hành vi tiết lộ thông tin bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, có thể bị xử phạt từ 20 - 30 triệu đồng theo quy định tại khoản 2, điều 101, nghị định 15/2020/NĐ-CP.
Về chế tài hình sự:
Hành vi xâm phạm bí mật, thông tin cá nhân của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 159, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Mời bạn đọc đặt câu hỏi để được luật sư tư vấn
Bạn có vấn đề về hôn nhân gia đình, tài sản, đất đai, bản quyền, hợp đồng kinh tế, thuế... cần được luật sư tư vấn cụ thể, vui lòng gửi câu hỏi (gõ bằng tiếng Việt có dấu, font chữ UNICODE) về Tuổi Trẻ Online qua địa chỉ [email protected].
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận