Phóng to |
Các đơn vị sản xuất, truyền tải, điều độ hệ thống điện không được đình công. Trong ảnh: công nhân kéo điện cho Khu công nghiệp Hiệp Phước (TP.HCM) - Ảnh: TTO |
Theo đó, có 6 nhóm đơn vị sử dụng lao động không được đình công gồm:
1- Sản xuất, truyền tải, điều độ hệ thống điện;
2- Thăm dò, khai thác dầu khí; sản xuất, cung cấp khí, gas;
3- Bảo đảm an toàn hàng không, an toàn hàng hải;
4- Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông; bưu chính phục vụ cơ quan nhà nước;
5- Cung cấp nước sạch, thoát nước, vệ sinh môi trường ở các thành phố trực thuộc trung ương;
6- Trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng.
Trong đó, nhóm đơn vị sản xuất, truyền tải, điều độ hệ thống điện có 5 đơn vị không được đình công gồm: Công ty Thủy điện Hòa Bình, Công ty Thủy điện Sơn La, Công ty TNHH một thành viên Nhiệt điện Phú Mỹ, các công ty truyền tải điện thuộc Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia, Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia.
Nhóm đơn vị bảo đảm an toàn hàng không, an toàn hàng hải có các đơn vị không được đình công gồm: các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay thuộc Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam, các cảng hàng không: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ thuộc Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam...
Giải quyết yêu cầu của tập thể lao động không được đình công
Về việc giải quyết yêu cầu của tập thể lao động ở đơn vị sử dụng lao động không được đình công, nghị định nêu rõ khi nhận được yêu cầu của ban chấp hành công đoàn cơ sở (hoặc ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở) về việc chấp hành các quy định của pháp luật lao động liên quan đến quyền của người lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm khắc phục ngay vi phạm, đồng thời thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ có liên quan theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nhận được yêu cầu của ban chấp hành công đoàn cơ sở về vấn đề liên quan đến lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm tổ chức phiên họp thương lượng tập thể với ban chấp hành công đoàn cơ sở theo quy định của pháp luật về lao động, đồng thời thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi đơn vị sử dụng lao động đóng trụ sở chính để cử hòa giải viên lao động hoặc cử người trực tiếp hỗ trợ quá trình thương lượng tập thể.
Bên cạnh đó, người sử dụng lao động phải thực hiện những nội dung đã được hai bên thống nhất ngay sau khi kết thúc phiên họp thương lượng tập thể. Trường hợp thương lượng không thành, mỗi bên có văn bản đề nghị hội đồng trọng tài lao động nơi đơn vị sử dụng lao động đóng trụ sở chính xem xét, giải quyết.
Sau 5 ngày, kể từ ngày hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải thành mà một trong các bên không thực hiện thỏa thuận đã đạt được hoặc sau 3 ngày kể từ ngày hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải không thành thì ban chấp hành công đoàn cơ sở có văn bản kiến nghị Sở Lao động - thương binh và xã hội, nơi đơn vị sử dụng lao động đóng trụ sở chính và công đoàn cấp trên báo cáo chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết.
Quyết định của chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là kết luận cuối cùng mà hai bên phải chấp hành.
Định kỳ 6 tháng đối thoại tiếp nhận yêu cầu của người lao động
Nghị định nêu rõ định kỳ 6 tháng một lần, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc người được ủy quyền hợp pháp có trách nhiệm phối hợp với tổ chức công đoàn và đại diện người sử dụng lao động cùng cấp tổ chức đối thoại tiếp nhận yêu cầu của người sử dụng lao động, người lao động và ban chấp hành công đoàn cơ sở ở đơn vị sử dụng lao động không được đình công thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý để kịp thời giải quyết yêu cầu chính đáng của tập thể lao động.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 23-6-2013.
(Chinhphu.vn)
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận